Lúc sắp
hàng để lên phi cơ tôi nhìn lại một lần nữa tấm giấy di chuyển nơi đến
của tôi được ghi rõ là Nha Trang tôi biết được đó là cái trạm chót trước
khi tàu trở lại Saigon. Tuy vậy khi ngồi yên vào ghế buộc dây thắt lưng
tôi cũng thấy vơi đi nỗi bồn chồn lo lắng cũ; vì dù sao trong nội ngày
nay tôi cũng sẽ rời được Saigon. Trong nội ngày nay mình sẽ nằm tại Nha
Trang với Hoài một đêm la cà thức suốt sáng bên ngàn chuyện tâm sự vặt
vãnh nhưng vô vàn nồng nàn như những ước mơ mong được gặp gỡ của mười
mấy tháng trời ròng rã mịt mù thắt thỏm. Mong cho chuyến bay đừng giở
chứng chuyển hướng hay nằm ì lại một trạm nào không phải là nơi đến đã
ghi rành rành trong lệnh di chuyển. Cái ì ạch trục trặc được gọi chung
là "lý do kỹ thuật" của Air-kaki đã nổi tiếng và làm cho hành khách sợ.
Đã có lần tôi bị rét cóng ở Chu Lai một đêm tối hôm sau lại bị vất xuống
Cam Ranh rời rã tìm nơi tá túc mờ sáng đón xe đò đi Quy Nhơn bước chân
tới cửa nhà chị Phụng đã quẳng xắc xuống đất nằm dài lên phảng kêu tay
chân rũ riệt tê mỏi; trên một chuyến bay năm nào. Sống đợ đi nhờ thì
đành phải chịu chứ biết sao ?. Tới Nha Trang là tới Quy Nhơn cũng như
thấy được Hoài là gặp được Châu. Ở Hoài tôi tìm thấy được thực nhiều an
ủi êm dịu với một tình bạn được thắt chặt bằng nhiều nỗi cảm thông sâu
kín. Từ những thấu hiểu chia sẻ tôi thấy Hoài quả là người còn lại cho
đời tôi nương tựa. Vì thế Hoài bao giờ cũng ở quanh quẩn bên những câu
chuyện của tôi của Châu của chị Phụng cho dù hắn có dong ruổi lang thang
ở một phương trời nào tăm tối của một tên lính đã năm lần bảy lượt vào
nằm ở quân lao. Có một điều trái ngược là Hoài thật khác với đứa em hiện
đang dạy học phè phỡn phất phơ: Hoài nồng nhiệt và can đảm còn Nghi thì
ơ thờ và nhút nhát. Mỗi câu nói thoát ra ở cửa miệng Nghi bao giờ cũng
lỏng lẻo nhạt nhẽo hờ hững chậm chạp. Hắn thờ ơ như lòng dạ mình đối với
kẻ khác. Và lạnh lùng như cái tính tự phụ của hắn. Đã có lần tôi nghĩ
nếu vậy làm sao hắn có thể tán được nhiều gái ? Có lẽ nào con gái dạo
này lại dễ dàng nghe theo những câu tán tỉnh kiêu căng của hắn đến vậy?
Mầm hy vọng và sức sống tin tưởng mãnh liệt bao giờ cũng trỗi dậy từ
những cảnh đời lao đao lận đận như Hoài. Còn thì mọi bả xa hoa sung túc
đều làm thui chột hết mọi niềm tin phấn đấu nơi con người. Dĩ nhiên là
tôi chẳng bao giờ lại gần gũi với những kẻ chỉ để làm nản và buồn lòng
mình như vậy.
Tôi nghĩ thế và càng thấy thương cho Hoài biết yêu quí
tình bằng hữu hơn. Trèo lên xe buýt Thuận Thành chỉ bốn giờ đồng hồ là
xe đã xuôi xuống đèo Cù Mông gọi xe dừng lại ở ngã ba Phú Tài đi tiếp
đoạn đường cuối ra Đập Đá bằng xe lam xe Châu Thành hay xe buýt đỏ là đã
nói chuyện được với chị Phụng. Là đã được nằm dài lên tấm phảng mát
rượi bóng loáng mà nhìn từng nụ cười chiu chắt nghe từng lời hỏi thăm
vồn vã đằm thắm của chị dành cho thằng em phiêu bạt lãng đãng trở về tợ
bóng mây bềnh bồng nhớ khung trời cũ. Bốn giờ ngồi nhìn lại từng chặng
đường đèo sương phủ mạch suối mờ ẩn khuất xa xăm để nao nức nhớ Châu
trên những chuyến xe đò tìm kiếm năm trước. Bốn giờ ngồi trông lại từng
cánh rừng già cháy trụi phơi đá trắng đá đen cỏ cây âu sầu vàng võ còn
lại với hai câu thơ Hoài đã một phút xúc cảm đọc lên cho tôi nghe ngày
nào hai đứa còn đeo theo sau chuyến xe đò về muộn để thấy mình càng lẻ
loi ngơ ngác. (Tôi còn nhớ rõ hai câu thơ này: Thôi rừng đã hết màu
tươi/ Thôi người cũng hết lòng vui với đời). Bốn giờ ngồi trên xe đếm
từng cánh rừng dừa bị ảnh hưởng thuốc khai quang èo uột khô héo; từng
cánh đồng không cô quạnh cỏ mọc phủ bờ còm cõi gian nan như những bóng
người như bóng vật lam lũ thấp thoáng ở bìa rừng trong nương rẫy. Bốn
giờ ngồi hút thuốc bốn giờ ngủ gật cho qua mấy chục cái bót gác chỉ đặt
ra để hạch sách làm tiền xe cộ hơn là để kiểm soát lưu thông. Bốn giờ
tỉnh ngủ khỏe khoắn nói chuyện cà kê với những ông già chị đàn bà ngồi
cạnh để thấy cái xao xuyến được quen dần với quê nhà mà mong cho chóng
tới chân đèo Cù Mông yêu dấu...
Tàu chếnh cánh bay trên những lũng
đồi rừng núi nhà cửa san sát nằm thoai thoải giữa khoảng bao la tươi
mượt của một màu xanh Cao nguyên đậm đà nhỏ bé quyến rủ. Tôi nhìn lên
mặt đồng hồ: Hơn một giờ bay. Tôi nhìn vào ô kính tàu: Pleiku phía dưới.
Pliku của những sớm mai mùa hè sương mù lạnh buốt những trận mưa mục
đất não lòng ào ạt mênh mông những ngày mỏi mệt rời rã lười biếng nằm
hoài trong chăn chờ đợi từng giấc ngủ trễ nãi phờ phạc. Pleiku kín mít
núi đồi rừng cây hoang tịch lặng lờ những tháng ngày bị cô lập đường bộ
bị đặt mìn đụng độ suốt ngày dưới chân đèo An Khê trên lưng chừng đèo
Man Giang heo hút. Pleiku của sáu năm trước lúc chị Phụng còn lặn lội
theo chồng ngày mới làm đám cưới đi hết sống hết từng vùng núi rừng độc
địa hiểm nghèo xa lạ trở về với bệnh sốt rét rừng vàng võ tựa hồ chiếc
lá rừng khô. Pleiku của năm năm sau này tôi và Hoài bị nhốt vào bót cảnh
sát bị trục xuất khỏi thành phố trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ như
một tội nhân nguy hiểm bởi những bồng bột của tuổi trẻ ham dong ruổi
đây đó để lãng tránh cái không khí hỗn loạn mà không có được tấm giấy
phép. Pleiku không còn bóng dáng chị Phụng không còn bước chân Hoài nên
Pleiku vô cùng cách biệt trở nên xa lạ trong mắt tôi ...
Tàu đáp
xuống phi đạo chạy vào sân tiếng máy nổ rền vang dội một góc trời tĩnh
mịch. Cửa tàu mở: khoảng sân đáp rộng trống trải tràn ngập ánh nắng mai.
Ánh nắng rực rỡ trong mới yên lặng một cách êm đềm trên những đồn trại
rừng cây khiến tôi nghĩ Pleiku ồn ào biến động của một thời ngày đêm bị
pháo kích đạn bom nổ ì ầm chấn động nhà cửa trong cánh rừng kề cận thành
phố.. Pleiku được trả lại với núi đồi rừng cây trơ vơ hoang dã của miền
Cao nguyên thầm lặng âm u. Tôi giúp bồng đưa nhỏ trạc ba bốn tuổi con
của chị đàn bà ở miệt trong lặn lội ra thăm chồng xuống tàu. Nhìn thằng
bé lăng quăng ngơ ngác chạy theo chân mẹ vào trạm tôi bỗng nhớ tới Châu.
Nhớ tới một đứa con mơ ước. Nhớ tới những toan tính thắc thỏm trong
lòng để cố dứt bỏ mọi hệ lụy oan khiên mà cùng Châu đằm thắm bên nhau
với những đứa con như những ước mơ canh cánh nơi lòng. Nếu tôi cưới Châu
(lại cũng bắt đầu bằng cái giả thiết mơ hồ buồn bã này) thì thằng con
đầu lòng của tôi cũng xấp xỉ bằng thằng bé kia rồi còn gì? Năm năm thời
gian quá đủ cho cuộc tình mặn nồng có thêm một đứa con bồng bế. Năm năm
đã qua qua chậm chạp qua từng đêm qua từng giờ qua từng cơn hốt hoảng
ray rức; nhưng đứa con tình nghĩa ái ân vẫn chưa chào đời vẫn chưa cất
tiêng khóc cho người cha phiền muộn người mẹ cô đơn đỡ thấy sự có mặt
của mình là một tai ương của đất trời lãnh đạm. Em yêu dấu con yêu
dấu... dù con vắng bóng cạnh cuộc đời phiền nhiễu của cha nhưng hình
bóng con vẫn hoài hoài ngời sáng trong mơ ước đêm ngày của cha tựa cánh
phượng hồng của ấu thời mơ mộng. Em yêu quí anh không còn lời lẽ nào để
diễn tả hết nỗi thương nhớ em và niềm mơ ước về một đứa con mà chúng ta
vẫn hằng mong đợi. Em hãy giữ vững lòng tin yêu cũ bởi vì chỉ có tấm
lòng thủy chung son sắt đó mới còn lại sau những thù hận đổi dời này. Em
yêu quí anh đã quyết định: Mùa xuân này chúng ta sẽ có một đứa
con...".Tôi nhìn dõi theo bóng thằng bé lẽo đẽo theo mẹ ngược xuôi thăm
cha mà nhớ thương Châu da diết. Tôi nghĩ Hoài nói có lý: "Mày phải nhớ
rằng trong bất kỳ cuộc tình nào cũng có cái khó khăn. Càng sống như tụi
mình càng gặp nhiều oan trái. Mày có bao giờ chịu được như lũ thằng Nam
thằng Phùng thằng Thọ chui vào rọ gia đình xem tình yêu như một đổi chát
không? Nếu không mày phải hãnh diện là đã yêu Châu và được nàng đáp
lại. Những liên hệ bên ngoài ở ngoài tình yêu là những điều tạm thời và
giả trá cần được dứt bỏ.. "Những liên hệ phía ngoài ở ngoài tình yêu là
những điều tạm thời và giả trá cần được dứt bỏ" liệu tôi có thể dứt bỏ
hẳn một dòng họ bà con thấp thoáng sau lưng tôi không? Chính nỗi im lặng
riêng rẽ khép kín nơi chị Phụng đã làm tôi bàng hoàng phân vân nhiều
hơn. "Chị Phụng à nếu chị đã nói ngày đêm nguyện cầu Má phù hộ cho em
hạnh phúc thì việc của em yêu Châu đã là một nguồn hạnh phúc gần gũi mà
chị đã nguyện cầu được. Chị hãy vui vì nhìn thấy lũ em yêu thương nhau.
Những lo ngại e dè của chị em đã biết nhưng không hề gì. Rồi mọi xôn xao
sẽ qua đi và chỉ còn tình yêu thương ở lại. Châu là một người con gái
đáng yêu quí và cần được chị yêu thương che chở trong lúc nàng đang bơ
vơ".
Châu đã khóc chỉ biết khóc có lúc tôi nghĩ trời sinh nàng ra để
khóc sao đó. Và toàn thân nàng như được kết tụ lại bằng những giọt nước
mắt trong suốt và nồng nàn. Nhìn những giọt nước mắt Châu tuôn nhanh
vội vã như bao phiền muộn đã ứ đọng tràn đầy tôi đã thấy được rằng quanh
tôi chung quanh chúng tôi tất cả thực tàn nhẫn: Tôi thấy tôi lẻ loi cô
độc hơn bao giờ khi nhìn thấy nàng khóc. Tôi lạc lõng và yếu đuối trong
những giọt nước mắt của Châu. Sống giữa cõi tăm tối của những phi lý
được nhìn nhận cho đời người con người quả thực là khổ sở và cô độc. Đời
sống bấp bênh hiện thời lại có quá nhiều nỗi rối reng như vậy nên những
lời lẽ lý tưởng của Hoài thường vẫn bị lãng quên và đôi khi bị coi là
điên rồ. Cuộc đời với những ân oán của đất trời mờ mịt chưa đủ để dày vò
đày ải con người hay sao? Sao lại bày thêm những oán cừu thù nghịch
ngay với những đứa bé thơ ngây những người hiền từ giản di như đồng
ruộng nương rẫy những người con gái như Châu suốt đời chỉ mơ một đứa con
tình nghĩa để hy vọng ? "Châu thương nhớ đã năm lần năm mùa xuân qua
trên ngôi mộ mẹ chúng ta đã van xin khẩn nguyện. em đã khóc thật bùi mỗi
bận anh trở về tảo mộ và buổi sáng đầu năm lặng lẽ cùng nhau đi thăm.
Nước mắt chúng ta đã chảy thắm nấm cỏ xanh trên đầu ngôi mộ nhưng lời
nguyền ước xưa vẫn tàn lụi hư ảo như khói hương đốt cháy. Cỏ bây giờ
chắc đã mọc đầy nấm mộ hoang liêu ấy nhưng giấc mơ sao không xanh thêm
tiếng khóc trẻ thơ trong lòng chúng ta keo sơn gắn bó ?"
Tôi nhớ một
chuyến trở về muộn màng ghé Châu giục nàng cùng đi tảo mộ. Ngôi mộ đó
trước mặt chúng tôi không là một nấm đất cỏ mọc tiêu điều mà là cả một
mạch nguồn an ủi vô tận êm ái. Vâng chỉ có người chết (Ôi người mẹ hiền
từ chung thủy) mới cảm thông xoa dịu được nhiều nỗi buồn đau khổ ải của
chúng tôi mà thôi. Người chết thì bao giờ cũng khoan dung nhân ái. Phải
chỉ có người mẹ mới biết thương yêu con như suối nguồn lênh láng mênh
mang. "Em không được một người thân nào của anh thương yêu hết lòng cả.
Mẹ sẽ yêu thương em và anh hết lòng. Nếu không có mẹ chắc em khổ sở lắm.
đúng vậy tới chừng nào mẹ bảo không yêu quí em lúc đó em mới thực là
đáng buồn. Nhưng mẹ có bao giờ nói thế đâu? Vâng mẹ đã chết từ mười chín
năm nay rồi".
Tôi dẫy gần xong ngôi mộ thì mặt trời chui ra khỏi
những đám mây rời rạc mỏng manh chiếu ánh nắng nóng bức ngột ngạt. Châu
che nón lên đầu tôi đầu nàng đội nắng . Tôi dừng tay cuốc nhìn Châu cười
. Tôi lấy chiếc nón đội hẳn lên đầu rồi bảo nàng vào ngồi dưới bụi tre
đợi. Ôi con chim non hiền hậu bên khóm tre già.
Tôi cúi xuống chia
hai thẻ nhang cắm xuống đầu ngôi mộ. Châu đứng lặng nhìn tôi sững sờ.
Hình như trong nỗi im lặng thênh thang kia nàng cũng đang thì thầm cầu
nguyện. Những lời lẽ cũng im vắng sâu thẳm trong tận cùng lòng dạ và trí
óc. Tôi đọc được những điều đó trên nét đờ đẫn rưng rưng thoáng một
chút chua xót bơ phờ. Châu đã đến đứng thế vào chỗ của tôi hai tay chắp
lại để giữa ngực những ngón tay dài âu yếm ngón áp út bàn tay trái sáng
ánh chiếc nhẫn đính hôn (ôi một cuộc đính hôn thầm lặng nhưng ngọt ngào
gắn bó biết bao) của tôi gởi tặng hai năm trước (ôi chiếc nhẫn tình
nghĩa gối chăn chưa một lần được nồng đậm) mái tóc đổ lòa xòa xuống
khuôn mặt đôi môi mắp máy chợt khóc hai giòng nước mắt lặng lẽ chảy
xuống trủng má. Đợt khói của hai khóm nhang bay vơ vất lãng đãng phía
dưới. Tôi chợt nhận ra đôi chân nàng run rẩy. Hình như gió lạnh?
Người lính ở phía dưới bậc thang sừng sộ giục tôi trở vào tàu mặc dù phi
hành đoàn chưa có ai trở lại. Tôi rời rã lui vào nhoài người qua dãy
ghế giữa chui vào ngồi ở một góc tàu. Người lính nhớn nhác nhìn một vòng
các hàng ghế đầy ắp hành khách rồi thảy xắc vào chỗ trống cạnh tôi.
(chỗ của người đàn bà và đứa con đã xuống). Gã móc túi lấy thuốc châm
hút. Nhìn bộ tịch cũng biết gã đã sung sướng đến dường nào. Có lẽ đã năm
lần bảy lượt đón tàu giờ gã mới thực sự nghĩ tới phút nghỉ phép mơ mộng
? Đốt xong điếu thuốc rít một hơi dài nhìn tiếp một vòng đám hành khách
bơ phờ lặng lẽ gã nhảy qua hàng ghế ngồi vắt chân lên những sợi dây
buộc của hàng ghế trước. Thỉnh thoảng có tiếng thở dài mỏi mệt của vài
hành khách. Đôi lúc những tiếng thở dài cam chịu ngao ngán này không nén
giữ được những chờ chực bực bội vuột ra với những câu nói cộc lốc tục
tĩu. Tôi đã nhắm mắt mở mắt tới mấy bận vẫn không thấy bóng một người
nào của phi hành đoàn. Tôi cố nhắm mắt lại giằn cơn giận mơ hồ. Tôi tự
nhủ hãy ngủ đi một lát thế nào nội trong ngày này cũng tới Nha Trang sẽ
gặp Hoài đang chờ đợi đâu đó trên đường về nhà. Và tôi nhắm mắt cố dỗ
một giấc ngủ tình cờ.
Tôi mở mắt ngớ ngẩn như có tiếng ai gọi thì
thầm: Đám hành khách vẫn ngồi rủ riệt chờ đợi. Lãng đãng trong lòng tàu
khói thuốc bốc lên mờ mờ. Tôi nhìn thấy gã lính ngồi cạnh cúi đầu lên
trang thơ của cuộc tuần báo khói thuốc phì phà liên tiếp. Tôi bắt đầu
nhìn gã kỹ hơn lần gã sừng sộ tôi: Gã hãy còn rất trẻ dáng dấp của một
thư sinh tóc tai bờm sờm. Gã mải mê đọc những bài thơ của một trang thơ
đăng dày đặc. Trông gã ngồi đọc thơ đoán biết gã hâm mộ thơ văn một cây.
Tôi tò mò ngồi ngay ngắn nhìn vào trang thơ gã đang đọc dở. Cái nhan đề
của bài thơ đầu đăng ở phía ngoài: Xuân Ly Loạn ở dưới có ghi thương
trao về người em áo trắng xứ dừa xanh thi văn đoàn Dấu Chân; tôi ngầm
đoán chắc gã đọc Phụ Nữ Ngày Mai Phụ Nữ Mới hay Phụ Nữ Tân Tiến gì đây.
Tôi lại nghĩ tiếp cắm trại một trăm phần trăm ứng chiến một trăm phần
trăm làm cho những mong mỏi quay về sum họp cũng một trăm phần trăm tan
tành mây khói; mà được tấm giấy phép đặc biệt ân huệ cho một chuyến ra
đi trong những ngày kề cận cuối năm quả thực đáng được để ngồi hút thuốc
đọc thơ phụ nữ như gã lắm. Tôi lại hối tiếc bởi tôi không được hưởng
những giây phút mơ mộng đó với một tập báo phụ nữ cất sẵn trong xắc như
gã. Tôi chợt chú ý tới hơi thở nóng bừng yếu đuối gấp gáp của tôi: cơn
sốt chắc đã bắt đầu kéo tới hành hạ ? Đôi mắt tôi trĩu nặng nóng hực cay
xót quá rồi. Cái váng vất xây xẩm dấy lên mỗi lúc một dữ tôi nghe yếu
lã hẳn trong người. Khi tôi nhắm mắt lại tôi vẫn giữ được hình ảnh gã
đăm chiêu mơ màng trên những bài thơ. Hình ảnh này khiến tôi nghĩ ít ra
thơ thẩn cũng có ích. Có ích như lúc này chẳng hạng. Những lợi ích quá
nhỏ đến như thừa thãi kiểu cách như cái dáng ngồi gác chân vễnh lên
miệng ngậm xéo một điếu thuốc Salem của gã lính ngồi cạnh. Thơ văn và
đời sống hình như hai con đường sắt song song ít khi được gặp gỡ chung
một ga xép nào của con đường đời muôn trạm. Nó cũng có thể ví như một
con tàu chạy hờ hửng bên ngoài cuộc đời oan trái dâu bể. Người ta nghe
thấy nhận sự có mặt của nó như một hiện hữu tất nhiên êm đềm nhưng có
mấy ai đã nhảy qua ngồi hẳn với con tàu thênh thang nồng nàn êm ái kia ?
Chính tôi ngay tôi đã có nhiều nỗi bực tức vu vơ nào đó về gã lính ngồi
cạnh vì những bài thơ nọ. Hay tôi đã quá mỏi mệt thất vọng rồi chăng ?
Tôi dang hai tay bấu vào những sợi dây chằng ghế cố dằn một cơn buồn
nôn. Và tôi chập chờn đi vào một giấc ngủ mê thấy mình đang lủi thủi
trên một khúc đường Pasteur cạnh công viên có vài cặp nhân tình ôm nhau
quấn quít. Những cặp tình nhân trông tựa đôi chim lẫn trốn co ro ....
Như vậy là tôi đã kẹt lại ở Saigon đúng năm ngày và một buổi chiều. Năm
ngày và một buổi chiều ở Nha Trang Hoài mặc sức mà đợi ở quê nhà Châu
mặc sức mà thờ thẫn mong ngóng. Năm ngày và một buổi chiều tôi đã lang
thang đi giữa phố phường hoa lệ mà ngỡ như đi giữa đồng không. Năm ngày
và một buổi chiều lên xe lam xuống xe lam đi tới đi lui những ngã đường
quen thuộc đến mỏi nhừ đôi chân chui vào một quán ăn tệ mạt nhất thủ đô
trong con hẻm cạnh đường Bùi Viện của một bà già thất nghiệp mở quán ăn
bình dân ngay trong tiệm may của con gái mình. Năm ngày và một buổi
chiều rầu rĩ trong từng cơn nóng sốt trên căn gác ván ọp ẹp nhện giăng
lù mù ánh đèn tròn của một người bà con xa lắc. Năm ngày và một buổi
chiều: Thời gian cực hình ở giữa muôn ngàn âm động nhức buốt ở cạnh
những vồ vập đổi chác trắng trợn ở trong nỗi lạc lõng phũ phàng của
những kẻ xa lạ khốn khó. Đời sống bịt bùng như những ô cửa cao kín cổng;
hối hả lo âu như dãy xe nối đuôi chờ tắt đèn màu đỏ; chật vật hả hê bên
những quán tối có điếm lớn điếm nhỏ o bế với những chai bia ly rượu....
Quả thực khi đi giữa Saigon không có mặt trời tôi mới thấy quí góc trời
yên vắng trên vòm tre quê kiểng. Tôi yêu lạ lùng mãnh trời trong khu
vườn sai hoa trái của mẹ con Châu. Tôi nhớ quá đổi những khung trời
hoang dã thênh thang trong những lần di quân hành quân trong ký ức. Bầu
trời cao rộng sáng ngời bao trùm tâm hồn tôi từ những ngày kháng chiến
tuổi nhỏ. Từ đó tôi vẫn thường bị những bầu trời cao sáng trong và nhuốm
thêm một chút đìu hiu quyến rủ vỗ về. Giá cho tôi sống mãi trong Saigon
với những tiện nghi chắc tôi sẽ không thể chịu được khi phải rời bỏ hẳn
trời xanh mây trắng gió lộng núi ngàn chim chóc đồng ruộng của những
vùng rực rỡ ánh nắng đam mê và mơ mộng. Tôi rời Saigon trong một buổi
sáng sớm khi cây lá nhà cửa công viên chợ búa trụ điện Saigon còn ngủ mê
mỏi mệt. Buổi sáng có gió thực lạnh có mưa thực hiền có đèn đường thực
vàng và có lòng tôi thực thanh thản êm dịu. Chào Saigòn. Tôi chào Saigòn
như chào một đứa con gái một đêm chung chăn gối. Saigon đã bao lần đến
bao lần đi nhưng Saigon vẫn là khuôn mặt của những cô gái trong những
quán tối lúc nào cũng sẵn sàng o bế chịu đựng và dửng dưng. Có ai lại
quá ngây thơ để quyến luyến đau xót khi rời xa một người con gái trong
dãy quán bên khu Dân sinh hay ngã tư Nancy ? Dù lòng có mở rộng bao la
nhưng tình cảm kia cũng sẽ bị coi như là một điều thừa thãi vô ích. Vô
ích như cây cầu bắt ngang qua ngã tư chợ Bến Thành. Khi xe của chúng tôi
chạy dần ra ngoại ô Saigon những chuyến xe chở đầy trái cây ở vùng phụ
cận đang di chuyển dần vào thành phố. Đó là một thức dậy của Saigon bắt
đầu cho Saigon náo nhiệt phiền nhiễu.
Mấy người trong phi hành đoàn
đã trở lại tàu nói cười rộn rã. Vì "lý do kỹ thuật" nên tàu cất cánh
chậm hơn một giờ đồng hồ. Cùng theo lên tàu với hai viên phi công có một
ả thiếu phụ trông rất đài các tươi tắn. Ngó nàng tôi nghĩ tới một cánh
hoa rừng của đồi núi Pleiku. Một viên phi công mang hộ valise lên trước.
Gã nhìn quanh lòng tàu có vẻ khó chịu bực dọc. Gã làm giống như chiếc
tàu là của riêng gã. Đoạn gã bảo người lính hải quân đang ngồi trước mặt
qua một ghế khác. Gã nói tới lần thứ hai với giọng sừng sộ quyền uy.
Người lính hải quân nhượng bộ tới ngồi nép bên một người bạn ở hàng ghế
sau với vẻ tức giận nhưng thực nhiều cam chịu nhẫn nhịn. Thấy người lính
hải quân bỏ đi nhường chỗ cho ả nọ viên phi công giải thích với vẻ đạo
đức: Anh là lính đàn ông anh đứng nhường chỗ cho đàn bà có được không?
Người đàn bà có vẻ do dự ngồi xuống nơi bỏ trống. Gã cúi xuống cười với ả
thực lịch sự. Nhìn chiếc khăn màu tím hoa sim quấn quanh cổ lối phục
sức rườm rà khuôn mặt no mập trắng trẻo của gã tôi thấy gã thực là cù
lần. Ai đời thanh niên mà điểm trang như đàn bà. Hành khách trong tàu
ngồi im theo dõi. Tôi nghĩ chắc ai cũng biết được rằng nếu cô ả là một
chị đàn bà quê mùa xấu xí như người đàn bà lúc mới xuống trạm thì một
trăm phần trăm gã phi công kia không hề tỏ chút gì là đạo đức lịch sự.
Sức mấy mà những chiếc khăn choàng cổ màu xanh tím đỏ nọ để cho những
người quê kệch kia nhìn ? Sức mấy mà những lời lẽ đượm nhiều săn đón
nồng nhiệt kia cũng sẽ dành cho tất cả những người đàn bà xấu số? Những
lời hào hoa của những kẻ hào hoa chỉ để dành nói cho những kẻ hào hoa
như họ mà thôi. Tôi nhắm mắt cố quên cố ngủ khi máy bay vừa nhấc bỗng
đôi cánh lên không.
Tiếng reo hốt hoảng của gã lính ngồi cạnh kéo
tôi bừng tỉnh những mơ nghĩ rối reng lộn xộn đang khắc khoải. Tôi mở
mắt. Tôi ngơ ngác. Tôi nhìn ngó láo liên. Tôi thấy mấy người trong phi
hành đoàn dáo dác hoảng hốt di chuyển lăng xăng từ nơi này tới nơi kia
trong tàu. Họ đi xem xét từng nơi từng chỗ. Hai người khác trèo lên trên
gầm tàu đong đưa. Một lát im lặng kinh hoàng một người trong bọn hỏi
vọng lại phía góc tôi ngồi: Có nghe thấy mùi khét khét không? Tôi cố
ngồi ngay ngắn tỉnh táo. Tôi nhăn mũi cố hít thở. Có có mùi cháy khét ở
đâu vậy ? Người lính trong bọn vừa hỏi tôi quay đi tới chỗ khác: Có nghe
thấy mùi khét khét không? Có có. Cả tàu bỗng nhớn nhác mất hồn. Tôi
trườn người cao hơn nhìn xuống tận đuôi tàu: Hơn 50 hành khách ồn ào sợ
hãi. Một thoáng tôi nghĩ nếu tàu bỗng dưng bốc cháy ? Có thể sẽ cháy một
chốc nữa. Tin tức về việc mất tích phát hỏa trên máy bay không phải là
ít. Tàu sẽ cháy báo chí sẽ đăng tin dù nhắc đi nhắc lại nhưng cũng rất
gọn ràng: Tàu bốc cháy hơn 50 hành khách thiệt mạng. Hơn 50 người thiệt
mạng không tim thấy xác gọn gàng hết sức. Năm mươi người thiệt mạng mà
tôi hiện đang thấy rõ nét tuyệt vọng khổ sở lo âu của họ. Năm mươi người
thiệt mạng trong đó có tôi. Có gã lính mê đọc thơ phụ nữ. Có cô ả xinh
xắn như một cánh hoa rừng. Có viên phi công quàng khăn tím mập tròn
trắng trẻo. Có người lính hải quân giận dỗi bỏ chỗ lòng còn khó chịu. Có
năm mươi đời sống như năm mươi sợi dây chằng chịt vương mắc khắp nơi
trên tàu như một hoang đảo âm u biệt lập. Tàu sẽ bốc cháy. Tôi sẽ chết.
Giản dị dễ dãi như lật úp bàn tay. Đời sống vẫn thường được kết thúc sớm
sủa chóng vánh như vậy. Nhưng còn Châu còn chị Phụng còn Hoài mỗi ngày
ngóng đợi tôi tới mòn con mắt ?
Gã lính ngồi cạnh quẳng tập báo
xuống sàn mở dây thắt lưng vội vàng. Hành khách phập phồng đứng ngồi như
một chiếc lò so. Có kẻ quay nhìn chằm chặp vào ô cửa kính. Tàu vẫn kêu
rúng động. Tôi chờ chực từng lần lên xuống chao liệng của thân tàu mà
nghĩ giá có Châu ở cạnh. Nếu có nàng bên tôi chắc chắn tôi không thấp
thỏm chờ đợi như vậy. Coi như tôi và nàng đã chuẩn bị một chuyến đi xa
như chuyến từ giã của mẹ tôi hơn mười chín năm về trước. Từng mảnh thịt
xương rơi tản mát giữa biển hay trong rừng già sẽ không có ai bây giờ
nhọc công tìm kiếm sẽ không có ai mai sau biết rằng đã có hồi tôi và
Châu có mặt trên phần đất tình nghĩa thâm sâu này. Không còn gì của tôi
và nàng để lại ngay cả một mối tình.
Những người trong phi hành đoàn
đã chia nhau đi trấn an hành khách sau khi tìm kiếm đã mỏi.
Không hề gì chắc cháy mối dây điện nào không hề gì ngồi yên lại buộc dây thắt lưng cho kỹ vào. Không hề gì người lính trong phi hành đoàn tiến tới góc chỗ tôi ngồi và tôi thấy nét mặt gã phờ phạc hãi hùng điểm lấm tấm những giọt mồ hôi. Gã lính ngồi cạnh tôi nãy giờ mải mê xoay lưng nhìn ra ô cửa tàu. Có lẽ gã còn quyến luyến với cuộc sống ở dưới ? Phải còn nhiều mơ mộng viễn vong với những bài thơ tình phụ nữ chắc hẳn gã hãy còn nhiều thiết tha với đời sống rộn ràng ở dưới kia chứ? Tôi làm theo lời dặn của người lính trong phi hành đoàn ngồi yên lặng buộc chặt dây thắt lưng nhắm mắt ngủ...
Viên phi công có quàng chiếc khăn màu tím hoa
sim bước ra khỏi phòng máy mặt tái nhợt nhạt đôi mắt đờ đẫn hẳn trong
sắc trắng bạc khoa tay nói trổng:
-Hỏng không đi tiếp được.
Đoạn gã cúi xuống cố mỉm cười với người đàn bà chiếc hoa rừng xinh sắn
đưa tay xách chiếc valise của ả bước xuống thang tàu. Hành khách một
thoáng do dự lục đục kéo xuống. Tôi đợi cho mọi người đã xuống sân tản
mát vào trạm xuống sau rốt. Khi xách chiếc xắc đứng dậy tôi quay lại hỏi
một người lính trong phi hành đoàn:
-Tàu không vào Nha Trang sao ?
-Không ...
Tôi lững thững nối đuôi những hành khách muộn màng vào trạm Đà Nẵng.
Cơn sốt hãy còn váng vất ngất ngư. Trước sân chờ của trạm hàng không Đà
Nẵng tôi thấy một đám đông người với hành lý cầm tay. Đám đông mờ dần
nhòe nhoẹt đi cùng lúc với một thành phố dập dìu người xe cộ bụi bặm Mỹ
và gái điếm ...
(Trong tập truyên cùng tên PHỐ NGƯỜI , Xuất bản Saigon năm 1971)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét