Hôm nọ, anh em khi trà dư tửu hậu có người thắc mắc
vì sao gọi là “mưa ngâu”, vì sao gọi
là gọi là “ông ngâu bà ngâu”. Tất
nhiên, truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ được đưa ra để giải thích. Người thắc mắc
lại hỏi vậy sao không gọi là “mưa ngưu”,
“ông ngưu bà ngưu”. Một ông bạn cho rằng “ngâu” là cách đọc chệch chữ Ngưu. Thế là một ông bạn khác cười chế
nhạo: “mưa ngưu” là “mưa trâu”“ông ngưu bà ngưu” là “ông
trâu bà trâu” à !?! Vì sao có sự đọc
chệch như thế ? Mà vì sao không đọc chệch theo cách khác đi?
Những ngày đầu tháng 7/2021, đại dịch Covid-19 ập đến
thị xã La Gi. Một trong những điểm xuất phát là tiệm phở Hồng Phong ngay trước
nhà tôi. Anh con rể tiệm phở là tài xế xe tải chở hải sản vào quận Bình Chánh, TP
HCM xét nghiệm dương tính. Thế là xe bịnh viện đến chở anh ta (F0) đi ngay.
Toàn bộ thành viên gia đình anh ta ở tiệm phở Hồng Phong (những người tiếp xúc
trực tiếp với F0 là F1) ngay sau đó cũng được chở đi vào trại vào trại cách ly
tập trung. Bà con nhốn nháo bu quanh xem và bàn tán.
Anh Vũ Đức
Sao Biển trút hơi thở cuối cùng vào 23h25 tối 6/5 tại nhà riêng ở
TP.HCM, hưởng thọ 72 tuổi, để lại nỗi tiếc thương trong lòng thân quyến,
bạn bè và người mến mộ.
Vũ Đức Sao Biển là nhà văn, nhà báo với nhiều bút danh: Đồ Bì, Đinh Ba, Mạc Đại… Anh còn được gọi là “Nhà Kim Dung học Việt Nam”, đã xuất bản bộ “Kim Dung giữa đời tôi” được bạn đọc yêu mến, ủng hộ…
Nhưng âm nhạc mới là lãnh vực mà anh được nhiều người biết và hâm mộ hơn cả. Vũ Đức Sao Biển là tác giả của nhiều ca khúc như: “Thu,
hát cho người, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên,
Điệu buồn phương Nam, Trên đồi xưa, Trở lại Bạc Liêu, Trên sóng Cửu
Long, Huyền thoại Ngũ hành sơn…”. Trong đó, ca khúc “Thu, hát cho người” để dấu ấn sâu đậm nhất.
Vào mùa đám
cưới, tôi thường nhận được thiệp mời. Xin nêu vài trường hợp về cách ghi
trên thiệp. Khi chú rể là con trai út thì thiệp mời ghi là ÚT NAM. Nếu
chú rể là con trai một trong gia đình (con trai duy nhất hoặc chỉ có chị em gái), thì thường được cha mẹ ghi trong thiệp là QUÝ NAM. Cách ghi như vậy trên thiệp mời là không chính xác.
Nữ sĩ
Hoàng Hương Trang đã từ giã cõi đời vào lúc 6g sáng 15-4 – 2020 và được
hỏa táng vào lúc16g chiều16-4-2020, hưởng thọ 84 tuổi. Tro cốt sẽ được
đưa về Huế và chôn tại ngôi mộ trên một ngọn đồi do chị tự lập từ năm
2011.
Là người đa tài (vẽ tranh, làm thơ, viết văn, sọan nhạc, viết thư pháp) nên
hơn nửa thế kỷ qua chị giao tiếp nhiều cây cao, bóng cả trong làng văn,
trận bút. Đặc biệt nghe chị hay nhắc về thi bá Vũ Hoàng Chương, kịch
tác gia Vi Huyền Đắc, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương, thi sĩ Kiên
Giang, nhà văn Toan Ánh, nhà thơ Tế Hanh… Chị còn là một nghệ sĩ ngâm
thơ trong chương trình Tao Đàn (do thi sĩ Đinh Hùng cùng bạn bè lập ra
chương trình Tao Đàn năm 1955 trên Đài phát thanh Sài Gòn), cùng các
nghệ sĩ Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Giáng Hương, Quách Đàm, Tô Kiều Ngân, Đoàn
Yên Linh, Vân Khanh, Hà Linh Bảo, Hồ Bảo Thanh, Mai Hiên, Huyền Trân,
Hồng Vân… Chị đã viết thơ tự vịnh về mình:
Thơ hơn chục cuốn, vạn bài
Văn ngoài dăm quyển, ngàn trang
Họa sáu mươi niên, dư vài trăm bức
Nhạc điểm xuyết mấy khúc ca.
Ngâm nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng
Một trong những bài ngâm thơ của chị mà La Thụy còn lưu giữ được là “Tống biệt hành”, thơ của thi sĩ Thâm Tâm.
Hôm nay, La
Thụy làm video clip để tưởng niệm nữ sĩ Hoàng Hương Trang và tống biệt
chị về vùng trời miên viễn. Nguyện cầu hương linh chị siêu thoát về nơi
cực lạc.
Đại thi hào Nguyễn Du tả tài nghệ đánh đàn Thúy Kiều :
Cung, thương, làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Các cụ Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Vĩnh… đều chú giải: “Hồ
cầm là cây đàn Tỳ Bà, vì đời xưa, vua Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân
phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cây đàn ấy, nên mới gọi là Hồ cầm”.
Nhà thơ Tản Đà lại cho rằng: “Hồ cầm
là cây đàn của rợ Hồ, nguyên chính là cái nhị; vì có kiểu nhị làm giống
như cây Tỳ Bà, cho nên Tỳ Bà người ta cũng gọi là Hồ cầm”.
Vào mùa đám cưới, tôi thường nhận được thiệp mời. Xin nêu vài trường
hợp về cách ghi trên thiệp. Khi chú rể là con trai út thì thiệp mời ghi
là ÚT NAM. Nếu chú rể là con trai một trong gia đình (con trai duy nhất hoặc chỉ có chị em gái), thì thường được cha mẹ ghi trong thiệp là QUÝ NAM. Cách ghi như vậy trên thiệp mời là không chính xác.
– Dùng từ ÚT NAM thì người viết thiệp vô tình tạo ra một từ kép sai về
ngữ pháp, không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt. ÚT
là từ đơn thuần Việt, NAM là từ đơn Hán Việt (từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép).
– Dùng từ QUÝ NAM với ý nghĩa là con trai một trong gia đình (con trai duy nhất hoặc chỉ có chị em gái) thì lại thiếu chính xác vì chưa hiểu rõ gốc Hán Việt, sai vì cố ý sửa gốc của từ.
Hầu như những ai từng sinh ra và lớn lên từ mảnh đất
Quảng Trị, Thừa Thiên đều thuộc lòng “Điệu Hò Ru Em” hay “Khúc Hát Ru Em” đặc
trưng vùng Trị Thiên, một bài ru thân thương quen thuộc thường được bà, mẹ hoặc
chị đưa trẻ vào giấc ngủ khi nằm nôi. Bản thân tôi từng được
say muồi giấc ngủ trẻ thơ, những khi bà nội tôi đong đưa những tao nôi cất giọng
hò ru ngọt ngào, êm ái… như ngày xưa bà đã từng ru ba tôi, các cô chú tôi và
chị em tôi. Đặc biệt hơn, bà lại hát ru những đứa con tôi – chắt nội của bà
tròn giấc ngủ ngon. Giọng hò ru của bà lắng đọng và thấm đượm vào sâu thẳm tâm
hồn chúng tôi.
Ngày khai trường với kỷ niệm mơn man làm tôi nhớ đoản văn LA RENTRE'E
DES CLASSES (TỰU TRƯỜNG) của nhà văn Anatole France – trích từ quyển
“Le Livre de mon ami” (Cuốn Sách Của Bạn Tôi). Đoản văn TỰU TRƯỜNG của
nhà văn Anatole France có ảnh hưởng lớn tới tâm hồn nhà văn Thanh Tịnh,
khi ông viết truyện ngắn TÔI ĐI HỌC. Hình ảnh chú bé A.France trong ngày
tựu trường khơi dậy những tình cảm trong sáng, bỡ ngỡ và êm ái của tuổi
thơ. Bởi hơn đâu hết, chính những thầy giáo vỡ lòng, thông qua trang
hồi kí tuyệt vời ấy, đã đánh thức ở họ những xúc cảm đầu đời: niềm đam
mê học hành và tình yêu văn chương nghệ thuật.
Tình
cờ lướt web, đọc bài Đạo Chích (chương 29, Trang Tử Nam Hoa Kinh), tôi
cứ tủm tỉm cười. Trang Tử khá “độc” khi đem “vạn thế sư biểu” Khổng Tử
của Nho giáo ra đùa cợt. Hình ảnh uy nghi, khẳng khái “uy vũ bất năng khuất”
đâu chẳng thấy mà chỉ còn là hình ảnh lão già tầm thường run như cầy
sấy trước hành động hung cuồng bạo ngược của Đạo Chích – kẻ bị cho là “đào
tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi
tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng
giỗ tổ tiên”. Đạo Chích vừa mới cất vài lời “cường ngôn” phản bác mà “Khổng
Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây
cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa
vào cái đòn ở trước xe, đầu cuối xuống, thở không ra hơi”. Trang Tử khéo giễu quá đi thôi! Đạo giáo cùng Nho giáo Tàu cũng “chỏi” nhau ra trò đó chứ!
Nhắc đến Trang Tử, tôi chợt nhớ hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:
Chiến tranh Việt Nam đã lùi xa mấy mươi năm rồi, nhưng trong tâm thức của những người từng sống qua cuộc chiến như vẫn còn in hằn bao vết đau nhức nhối. Nhà thơ Phạm Tường Đại (hội viên VHNT Bình Thuận ) - hồi còn sinh tiền, tuy đã gần tuổi 80, nhưng luôn lạc quan yêu đời, thế mà trong thơ ông vẫn vương mang nỗi buồn chiến cuộc. Xin mời đọc bài thơ "KHI CON RA ĐỜI" của Phạm Tường Đại qua cảm nhận của La Thuỵ