Uống Rượu Gạo Nhớ Trương Phi.
Thế Lộc
Vác xà mâu đứng giữa cầu
Hét to một tiếng mắt râu trợn trừng
Mấy mươi năm ông lẩy lừng
Tôi từ binh lửa mịt mù
Cũng giống ông chỉ ở tù mấy năm
Còn ông thì đã yên nằm
Cỏ xanh mộ chí trăm năm vĩnh hằng
Tôi với ông chưa hề quen
Nhưng khi uống rượu không ngăn nỗi lòng
Cuộc cờ hưng phế, suy vong
Kiếm cung bỏ dở tấm lòng mang theo
Tử như ông, thân nhẹ hều
Sống như tôi, thân tựa bèo trôi sông
Nhìn trời chớp bể mưa đông
Chạnh thương cho mẹ chữ tòng theo cha.
24. 04.2013
Lời bình: Châu Thạch
Đa số người Việt ta, dầu có chữ hay không
có chữ, chẳng mấy ai không biết Trương Phi. Bởi Trương Phi là một trong
những danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc bên Tàu, được truyền tụng
và được yêu mến, có ảnh hưởng sâu đậm trong dân gian. Trong tiểu thuyết
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung, nhân vật Trương Phi cùng Lưu
Bị và Quan Vũ kết nghĩa huynh đệ, bái trời đất tại vườn đào. Trương Phi
là em út trong ba người.
Đọc bài thơ “Uống Rượu Gạo Nhớ Trương
Phi” của Thế Lộc không ai không biết nhà thơ mượn nhân vật Trương Phi để
gởi tâm sự của mình vào đó. Cái chữ “rượu gạo” cũng đã mang một hàm ý
sâu xa rồi.
Ngày xưa Trương Phi uống rượu gì ta không
biết, thế nhưng cũng dễ đoán được. Vì một người uống rượu như lưu linh,
lại là một võ tướng ngoài sa trường thì không có mỹ tửu đâu đủ để uống
cho say túy lúy, trừ ra là rượu gạo. “Rượu gạo” cũng mang tính dân tộc.
Những anh hùng trong lịch sử nước ta, như Quang Trung chẳng hạn, cũng
xuất thân từ giai cấp nông dân, mặc áo vãi, uống rượu gạo mà phất ngọn
cờ đào làm nên lich sử vẽ vang cho đất nước.
Ngày nay, Thế Lộc dùng hai chữ “rượu gạo”
trong thơ, một phần tỏ cái hào khí của mình cũng giống như người xưa
vậy, một phần tỏ cái thân phận thường dân của mình trong cuộc sống thời
nay, là cái thời mà bậc quyền thế, giới giàu sang chỉ uống toàn rượu
ngoại đắt tiền.
Vào đề nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thật hào hùng của người mãnh tướng năm xưa:
Vác xà mâu đứng giữa cầu
Hét to một tiếng mắt râu trợn trừng
Truyện xưa viết rằng: Trương Phi là người
khẳng khái, bộc trực, rất nóng nảy. Trương Phi có võ nghệ siêu phàm, vô
cùng dũng cảm. Trương Phi xử dụng vũ khí là một cây bát xà mâu dài 1, 8
trượng, cưởi tuấn mã màu đen chân trắng. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm
của quân thù. Một lần, trên cầu Trường Bản, Trương phi đã quát mấy tiếng
khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui binh. Khi ấy Trương Phi chỉ có vài mươi
kỵ sĩ, còn Tào Tháo thì có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy Hạ Hầu
Kiệt, một viên quan hầu Tào Tháo phải vỡ mật, chết đi vì hoảng sợ khi
nghe tiếng hét của Trương Phi.
Nhà thơ Thế Lộc nhắc lại chuyện nầy để
làm gì? Tác giả muốn dựng lại hình ảnh của chính mình đã có một thời như
thế. Tất nhiên, để anh hùng như Trương Phi thì ngàn năm mới có một
người. Thế nhưng, bất cứ người lính chiến nào, ở trong thời đại nào, ở
trong quân ngũ nào, nếu không là kẻ khiếp nhược thì cái tinh thân Trương
Phi vẫn có luôn trong dòng máu nóng. Thế Lộc dựng hình ảnh Trương Phi
đứng trên cầu Trương Bản năm xưa để tưởng nhớ lại chính mình, còn tưởng
nhớ đến một lớp người đã khoác áo chiến binh, mang một bầu máu nóng,
thẳng thắng, bộc trực, gan dạ và oai hùng trong thời binh lửa.
Thế rồi tiếp bốn câu thơ sau, Thế Lộc đem mình ra so sánh với Trương Phi:
Mấy mươi năm ông lẩy lừng
Chỉ trong gan tấc ông thành thiên thu
Tôi từ binh lửa mịt mù
Cũng giống ông chỉ ở tù mấy năm
Như trên đã nói, Trương Phi là người rất
nóng nảy. Cũng bởi tính nóng nảy đó, ông đã chuốc họa vào thân. Do nôn
nóng việc báo thù cho Quan Vũ, người anh kết nghĩa vườn đào của Trương
Phi bị Đông Ngô hại chết mà ông đánh đập quân sĩ, làm cho khiếp đảm
những người dưới trướng. Một đêm, uống rượu ngủ say, Trương Phi bị
Trương Đạt và Phạm Cương, vì lo sợ Trương Phi sẽ chém đầu bởi không làm
tròn phận sự mà Trương Phi giao phó, đã âm thầm sát hại, dùng dao đâm
ông chết. Cái chết của Trương Phi thật là bi đát, bởi không chết trên sa
trường, không da ngựa bọc thây, là điều hảnh diện của võ tướng, của mọi
người chiến binh gan dạ.
Khi nhà thơ Thế Lộc nói “Cũng như ông”
tức là tác giả tự cho mình tuy không chết, tuy chỉ ở tù mấy năm nhưng
nỗi đau có khi, còn nhiều hơn Trương Phi thuở xưa nữa, vì không chết
trên sa trường, không poncho bọc thây, không thỏa lòng chỉ vì xuôi tay
theo định mệnh an bài. Thật thế, làm thân trai mang bầu máu nóng, kẻ ra
đi vì lý tưởng non sông, người ra đi vì lý tưởng của riêng mình, chẳng
một ai muốn mình buông vũ khi để vào tù. Thà chết quách như Trương Phi,
không chịu khổ lụy tiếp theo, để “huy hoàng rồi vụt tắt / Còn hơn buồn
le lói suốt trăm năm”. Thế Lộc đã nhấn mạnh điều đó trong hai câu thơ
sau, hai câu thơ tuy không nói rõ, nhưng như có một chút gì ganh tỵ với
Trương Phi, như cho rằng Trương Phi đã thỏa lòng vì đã ngàn năm yên
giấc:
Còn ông thì đã yên nằm
Cỏ xanh mộ chí trăm năm vĩnh hằng
Thế rồi khi rượu đã say, nhà thơ không nói mình rơi lệ, nhưng ta biết lòng nhà thơ rơi lệ:
Tôi với ông chưa hề quen
Nhưng khi uống rượu không ngăn nỗi lòng
Cuộc cờ hưng phế, suy vong
Kiếm cung bỏ dở tấm lòng mang theo
Cuộc cờ thì có hưng có phế có suy vong là lẽ thường tình, nhưng thương cho người “kiếm cung bỏ dở” phải chịu bao điều đắng cay.
Từ sự cảm kích một danh tướng thưở xa
xưa, nhà thơ đã chạnh lòng khi nhớ đến mình cũng đã từng mang ít hay
nhiều hào khí như hào khí của Trương Phi. Bốn câu thơ cho ta tưởng tượng
một cuộc đổi dời như nương dâu hóa biển và biết bao thân phận như bọt
bèo trôi theo dòng lũ. Bốn câu thơ cũng gợi cho ta những tâm sự buồn thê
thiết khi ai đó phải nhìn tận vào lòng mình để thấy “Dấu xưa xe ngựa
hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Thế rồi bằng một sự so sánh, Thế Lộc đã đánh giá sự chết của Trương Phi và sự sống của mình rất khác nhau
Tử như ông, thân nhẹ hều
Sống như tôi, thân tựa bèo trôi sông
Vâng đúng thế, chết đi thì “nhẹ hều” còn
sống thì phải mang nặng bao điều của cuộc sống. Điều đó là sự thật, và
là sự thật đau lòng cho hàng triệu chiến binh đã buông tay súng vì bất
đắc dĩ trước đây. Không cần phải kể lể, không càn phải thống kê, ai cũng
biết rằng những người chiến binh đó khó mà vươn lên giữa đời như một
thân cây tươi tốt vì được bón hoa màu. Họ dầu ở đâu, thân cũng chỉ như
“cánh bèo trôi” trên dòng sông đầy gềnh đầy thác!
Cuối cùng nhà thơ tỉnh người trong cơn
say rượu gạo. Tỉnh người để thấy bão bùng nổi lên bốn phương, để nhớ
người mẹ thân yêu mà mình hằng xa cách:
Nhìn trời chớp bể mưa đông
Chạnh thương cho mẹ chữ tòng theo cha.
“Lòng mẹ bao la như biển thái bình”. Đối
với tác giả, cha là cuôc sống hiện tại, mẹ là của cái thời thanh xuân,
còn trai trẻ. Mấy ai mà quên được thời trai trẻ của mình, nhất là cái
thời ấy, anh ta được vẩy vùng như hình ảnh của danh tướng Trương Phi.
Hai câu thơ cuối như một lời nhắn gởi thân yêu về qua khứ, cũng như một
lời từ biệt quá khứ không hẹn ngày tái ngộ.
Ngày mẹ lấy chồng. phải từ bỏ một thời
con gái, lìa bỏ cha mẹ anh em để tòng phu. Sự phân cách đó, không chỉ
buồn một lúc cho người ra đi, mà ngược lại nó tồn tại hòai trong ký ức
mỗi khi tưởng lại giây phút chia lìa. Thế Lộc dùng hình ảnh người mẹ ra
đi, như một ẩn dụ để gián tiếp bày tỏ nỗi niềm sâu kín trong tận con
tim. Tiếng kêu ấy như dòng nước mắt nuốt vào, hóa thành nỗi đau tinh
thần, trở thành nan y trong suốt cả cuộc đời còn lại.
“Uống Rượu Gạo Nhớ Trương Phi” là một bài
thơ bi hùng. Đọc bài thơ đó ta thấy hùng khí hiển hiện trong thơ, qua
hình ảnh Trương Phi. Cũng qua hình ảnh Trương Phi tác giả phát họa được
hình ảnh của chính mình một thời trai trẻ. Bài thơ có sự than thở tưởng
như bi nhưng sự bi đó cũng nằm trong sự hào hùng, kể cả khi “kiếm cung
bỏ dở” trong cuộc “hưng phế, suy vong”.
Đọc thơ, dầu người lớn tuổi đã trải qua
chinh chiến hay người nhỏ tuổi ở thế hệ hòa bình, vẫn thấy cái tinh thần
quật cường trong tâm hồn người chiến sĩ, dẫu họ thành hay bại trong
cuộc cờ thế sự. Tuy họ sống âm thâm, nỗi lòng của họ mang theo cùng sự
lãng mạn với chất Người hảo hán mà cha ông họ, thời đại họ đã giáo dục
họ không bao giờ thay đổi .
Châu Thạch
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét