Bên cạnh
Thẩm Thệ Hà, Trường Anh, Phan Phụng Văn, Thanh Việt Thanh… những cây
bút đã góp phần làm rạng rở gương mặt văn học Tây Ninh và cả miền Nam
trước 1975 không ai có thể quên được Từ Trẩm Lệ. Một nhà thơ tiêu
biểu, một ngòi bút nổi tiếng khắp cả miền Nam cùng thời với những tên
tuổi lớn khác như Lý Văn Sâm, Tô Nguyệt Đình, Bình Nguyên Lộc, Vũ Anh
Khanh, Hà Liên Tử, Phi Vân, Sơn Nam..., một niềm tự hào của đất và người
Tây Ninh mà hiện nay nhiều tác phẩm biên khảo về văn học trong nước như
Thi sĩ miền Nam của Phạm Thanh, Địa chí Văn hóa TP Hồ Chí Minh (T.2) và
Đi tìm những nhà thơ của Văn Xuân đã đề cập đến ông một cách rất trang
trọng và đánh giá một cách thật khách quan Từ Trẩm Lệ là một cây bút lạc
quan, yêu đời, cố vượt lên sự nghiệt ngả của số phận để sáng tạo các
tác phẩm rất tiến bộ ngay trong vòng kẻm gai của chế độ Sài Gòn trước
đây.
Tôi đã từng đọc thơ văn Từ Trẩm Lệ trên Phổ Thông tạp chí và các báo,
tạp chí khác xuất bản ở Sàigon khi còn là học sinh trung học những năm
60 của thế kỷ trước. Hồi đó tôi rất thích câu chuyện cổ Sự tích Chúa
Sơn Lâm của ông đăng trên Phổ thông cùng khá nhiều bài thơ. Hầu như trên
tờ báo nầy ông xuất hiện đều đặng nhất. Đọc ông từ đó mà tôi không hề
biết ông là người đồng hương với mình. Mãi cho đến năm 1991 tôi mới được
quen biết và tiếp xúc với ông qua giới thiệu của Bác sĩ Nguyễn Công Tỷ.
Lúc ấy là giám đốc Bệnh viện Y học Dân tộc Tây Ninh, người đã nhận ông
về điều trị miễn phí trong một thời gian khá lâu tại bệnh viên. Được
biết qua trao đổi với ông, ông tên thật là Trần Văn Hinh, sinh năm 1925
tại huyện Gò Dầu (Tây Ninh) trong một gia đình nhà giáo mà ông là người
con thứ năm. Lúc nhỏ học tiểu học tại trường Tiểu học Gò Dầu Hạ, sau đó
về Sài gòn học Trung học Pétrus Ký (Sài Gòn) nay là Trường THPT Lê Hồng
Phong. Thế nhưng mới đến năm thứ hai ông đã mắc phải chứng bệnh vôi hóa
cột sống, khiến ông rất khó khăn trong việc di chuyển. Đi đâu cũng phải
chống gậy. Không thể tiếp tục học hành. Ông đi tìm quên lãng nỗi đau
thế xác trong việc sáng tác thơ văn. Ông viết và có thơ thường xuyên
trên các báo Ánh Sáng, Việt Bút... Chỉ một thời gian ngắn ông chán ngán
cảnh phồn hoa, đô hội và trở về quê hương dạy học. Tuy vậy ông không rời
bỏ niềm đam mê làm thơ, viết báo và ông tiếp tục viết cho các báo ở
Sài Gòn như: Bông Lúa, Thẩm Mỹ, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thời Nay, Phổ
Thông…
Năm
1984 ông lại bị bán thân bất toại do tai biến mạch máu não. Chứng bệnh
nặng nề ấy đã hành hạ ông cho đến cuối đời. Ban đầu ông có lê lết được
một chút nhưng sau đó phải nằm lại hẳn một chỗ. Ông không có gia đình
chỉ còn duy nhất một người anh ruột thứ tư nhưng anh cũng bị bệnh tật và
cuộc sống gia đình thiếu thốn, khó khăn nên không có ai chăm sóc ông
cả! Năm 1991 hưởng ứng vận động của báo Tuổi trẻ ( TP.HCM)anh chị em văn
nghệ sĩ và độc giả khắp nơi đã nhiệt tình đóng góp giúp đỡ ông chữa
trị bệnh tật.
Từ những năm 1945 những người yêu thơ, văn ở Sài Gòn và cả miền Nam đã
biết đến bút danh của ông. Về thơ ông đã có đến hàng trăm bài thơ, một
tập thơ gồm 35 bài. Đó là những nỗi niềm ngân lên từ nỗi đau thể xác,
những suy tư nồng nàn tình yêu đất nước, quê hương… Là một trí thức rất
khiêm tốn, thật thà, nho nhã. Mỗi lần tôi hay bất cứ một anh em văn nghệ
sĩ nào đến thăm ông rất vui và tiếp xúc thật thân mật như người thân
trong gia đình… Ông hổ hởi nói chuyện thơ, chuyện đời không cần biết đến
thời gian, ông đọc thơ, những bài thơ mới viết… Và khi chia tay ông
thường quyến luyến nắm chặt tay và nhắc nhở khi nào rảnh nhớ đến với ông
vì ông buồn và cô đơn lắm. Con người ông là vậy nên cách viết của ông
cũng vậy. Thật mộc mạc, thật trong sáng và chân tình.
Tôi rất thích những bài thơ đậm đà rung cảm trong niềm tự hào về truyền thống vinh quang của dân tộc, của đất nước:
Mực thắm năm năm màu Tết cũ
Một đêm Kỷ Dậu chói nghìn thu
Một đêm vó ngựa rến Kinh Bắc
Cướp lại Thăng Long quét sạch thù…
Ông yêu mùa thu của đất trời và mùa thu của cả giống nòi vùng lên đánh giặc, giành lại núi sông :
Đường thiên lý dặm vàng thay vó ngựa
Lá rụng nhiều trên những bến trần gian
Hương nguyền dâng Tổ quốc thắp cao sang
Không triết lý những hồn mơ tuấn kiệt
Chí là chí gươm thiêng mài bóng nguyệt
Trầm dâng cao lỏng lẻo dáng hương gầy…
Và
Khắp góc trời gái trai đầy đủ sẳn
Chực bờ đê ngăn vỡ bước ngoại xâm…
Thơ Từ Trẩm Lệ còn ấp ủ những cảm thông với tha nhân, với những hoàn cảnh đáng thương trên mọi ngã đường đời.
Thương em bóng lẻ âm thầm
Khổ đau câm nín, lệ đầm trong tim…
Ông đã viết cho những cánh chim phiêu bạc, tha phương trong một đêm mưa gió, âm thầm:
Đêm nay không biết ai tri kỷ
Để gởi sầu nhờ trọ một đêm...
Tháng 4-1998 bệnh của ông trở nặng hơn, ông yêu cầu được trở về mái nhà
của cha mẹ, của thời thơ ấu xa xưa. Thời điểm đó có một hôm tôi trở
lại Bệnh viện Y học Dân tộc thăm ông nhưng chỉ thấy… cái giường bệnh
ông nằm hôm nào vẫn còn trơ trọi đó. Nhưng ông đã vắng rồi. Tôi đành
cuối mặt quay đi. Từ ấy tôi không còn gặp ông nữa bởi vì từ ngày
28-5-1998 ông đã mãi mãi ra đi về cõi vĩnh hằng. Cái thân xác bệnh hoạn
đã mãi mãi hóa thân vào tro bụi kiếp người sau 15 năm bị bệnh tật hành
hạ. Thế nhưng người Tây Ninh mãi mãi nhớ đến ông – nhà thơ đất Gò Dầu
thân yêu - Từ Trẩm Lệ.
PHAN KỶ SỬU
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét