Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016

TRẦN THỌ – TÁC GIẢ BỘ CHÁNH SỬ TAM QUỐC CHÍ (Bài 1) – Thái Quốc Mưu

Tam Quốc bao quát cả một thời kỳ lịch sử gần một thế kỷ (từ 184 đến 280 sau công nguyên), tại đó, ba nước Ngụy, Thục, Ngô đã hình thành thế chân vạc trong quá trình đánh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân và trong cuộc chiến tranh giữa các chư hầu với nhau. Bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa của ba anh em Trương Giốc mà lịch sử gọi là cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn vàng) cho tới khi Tư Mã Viêm, cháu tướng Ngụy Tư Mã Ý, thống nhất được Trung Quốc để lập nên nhà Tấn và chấm dứt cục diện tam quốc phân tranh.
Căn cứ vào bộ tiểu thuyết giả sử Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và bộ Chính sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, nhà văn, nhà nghiên cứu Thái Quốc Mưu đã phân tích, lý giải với  quan điểm hoàn toàn mới để chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những nhân vật chủ chốt của bộ Tam Quốc Chí…
Đất Đứng
tam-quoc-chi---vien-ngoc-quy-trong-thu-phong-11-160120
 

TRẦN THỌ – TÁC GIẢ BỘ CHÁNH SỬ TAM QUỐC CHÍ – Bài 1
Thái Quốc Mưu

Tác giả Bộ Chánh Sử Tam Quốc Chí là Trần Thọ (陈寿), tự Thừa Tộ, sanh năm 233, mất năm 297, nguyên quán ở quận Ba Tây (nay thuộc đô thị Nam Sung, tỉnh Tứ Xuyên), làm quan Nhà Thục Hán, khi Thục Hán diệt vong, ông làm quan Nhà Tây Tấn. Trần Thọ thuở nhỏ hiếu học, bái Tiều Chu làm thầy, sau đó giữ chức Quan Các Lệnh Sử triều đình Thục Hán.
Trần Thọ vốn người ngay thẳng, trung thực được người đương thời tôn là bậc chính nhân quân tử, không theo phe phái nào, nhất là bọn hoạn quan Hoàng Hạo.
Trong thời gian đó, Trần Thọ khi làm Trước Trác Lang bắt đầu biên soạn Thục Tướng Gia Cát Lượng Tập dâng lên triều đình, Nhờ đó được thăng chức Trung Chính ở quận Dương Bình. Từ đó, Trần Thọ dồn hết tâm huyết để biên soạn tác phẩm Tam Quốc Chí, ghi chép lại lịch sử Trung Quốc thời kỳ Tam Quốc, tổng cộng 65 thiên, trở thành một trong 24 bộ chính sử lớn của Trung Quốc.
Dưới đây là tên Nhị Thập Tứ Sử Trung Hoa, gồm có:
1. Sử ký, của Tư Mã Thiên, 130 cuốn.
2. Hán thư, của Ban Cố, 100 cuốn.
3. Hậu Hán thư, của Phạm Diệp, 120 cuốn.
4. Tam quốc chí, của Trần Thọ, 65 cuốn.
5. Tấn thư, do Phòng  Huyền Linh chủ biên, 130 cuốn.
6. Tống thư, của Thẩm Ước, 100 cuốn.
7. Nam Tề thư, của Tiêu Tử Hiển, 59 cuốn.
8. Lương thư, của Diêu Tư Liêm, 56 cuốn.
9. Trần thư, của Diêu Tư Liêm, 36 cuốn.
10. Ngụy thư, của Ngụy Thâu, 114 cuốn.
11. Bắc Tề thư, của Lý Bách Dược, 50 cuốn.
12. Chu thư, do Lệnh Hồ Đức Phân chủ biên, 50 cuốn.
13. Tùy thư, do Ngụy Trưng chủ biên, 85 cuốn.
14. Nam sử, của Lý Diên Thọ, 80 cuốn.
15. Bắc sử, của Lý Diên Thọ, 100 cuốn.
16. Cựu Đường thư, do Lưu Hú chủ biên, 200 cuốn.
17. Tân Đường thư, của Âu Dương Tu và Tống Kỳ, 225 cuốn.
18. Cựu Ngũ Đại sử, do Tiết Cư Chính chủ biên, 150 cuốn.
19. Tân Ngũ Đại sử, do Âu Dương Tu chủ biên, 74 cuốn.
20. Tống sử, do Thoát Thoát chủ biên, 496 cuốn. 
21. Liêu sử, do Thoát Thoát chủ biên, 116 cuốn.
22. Kim sử do Thoát Thoát chủ biên,         135 cuốn.
23.Nguyên sử, do Tống Liêm chủ biên, 210 cuốn.
24. Minh sử, doTrương Đình Ngọc chủ biên, 332 cuốn.
Về sau có thêm 2 bộ sử:
– Tân Nguyên sử, do Kha Thiệu Văn chủ biên, 257 cuốn.
– Thanh sử cảo, doTriệu Nhĩ Tốn chủ biên, 529 cuốn.
Trong Tấn Thư chép, khi Tam Quốc Chí ra đời được đánh giá rất cao. Đương thời và cùng lúc với Hạ Hầu Trạm biên soạn cuốn Ngụy Thư. Khi Hạ Hầu Trạm xem Tam Quốc Chí của Trần Thọ, Hạ Hầu Trạm thấy mình viết không bằng Tam Quốc Chí của Thọ, liền tự tiêu hủy tác phẩm của mình.
Lưu Hiệp, người thời Lương (Nam-Bắc triều) trong cuốn Văn Tâm Điêu Long, tại mục Sử Truyện chép rằng: "Duy Trần Thọ Tam Quốc Chí, văn chất biện hiệp, Tuân, Trương tỷ chi ư Thiên, Cố, phi vọng dự dã" (Dịch: Tam quốc chí của Trần Thọ thấm nhuần chất văn, như Tuân, Trương so sánh với Thiên, Cố, chẳng phải khen quá lời).
Tam Quốc Chí của Trần Thọ không những chỉ chép khái quát tình hình chính trị, kinh tế, quân sự thời Tam Quốc mà còn đề cập đến nhiều nhân vật xuất sắc trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, kỹ thuật…, đồng thời ghi chép về một số dân tộc thiểu số ở Trung Hoa và viết thêm về các nước láng giềng của Trung Quốc (như Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ, Việt Nam…)
Tính trung thực của Trần Thọ khi viết bộ Tam Quốc Chí cũng có nhiều ý kiến phê bình khác nhau.
Theo Tấn Thư chép lại, thì Trần Thọ từng nói với Đinh Nghi, Đinh Hạo – hai người có tiếng ở nước Ngụy – rằng: "Khả mịch thiên hộc mễ kiến dữ, đương vị tôn công tác giai truyện" (Dịch: Nếu tìm cho ta được nghìn hộc lương (khoảng 10 ngàn kgs gạo), ta sẽ vì tôn phụ mà viết truyện cho hay). Kết quả bị từ chối, Trần Thọ cũng không viết truyện về người cha của hai anh em họ Đinh nữa.
Câu chuyện Trần Thọ đặt điều kiện với anh em họ Đinh hoàn toàn sai sự thật, vì Đinh Nghi (丁仪), tự Chính Lễ, làm quan Ngụy Tào, mất năm 220, trong khi Trần Thọ sanh năm 233, nghĩa là Đinh Nghi chết trước khi Trần Thọ chào đời 13 năm. Còn Đinh Hạo, tuy trong sách sử không nói rõ ràng, nhưng ta có thể hiểu Hạo cũng thuộc tầng lớp trước Trần Thọ thì lấy ai để Trần Thọ đặt điều kiện như trên mô tả? Điều nầy có thể bởi những kẻ cùng thời với Trần Thọ vì ganh ghét nhân cách, đố kỵ tài năng mà ngậm nọc độc phun vào tên tuổi Trần Thọ? Thời nào, ở đâu mà chẳng có loại người vô liêm sỉ?
Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng, do cha của Trần Thọ bị Gia Cát Lượng (Khổng Minh GIA Cát Lượng xử tội, nên trong quyển 35 Tam Quốc Chí phần viết về “GIA Cát Lượng Truyện”, Trần Thọ đánh giá Chư Cát Lượng là “danh quá kỳ thực” (Dịch: tiếng tăm vượt quá sự thật) là Thọ dùng việc công để báo thù riêng. (Chữ GIA Cát đọc là CHƯ Cát mới đúng. Trong bài nầy, khi đề cập đến họ GIA Cáttôi viết lại là CHƯ Cát – để chỉnh cách đọc cho hoàn chỉnh và đúng với nguyên tác).
Thân phụ của Trần Thọ là Trần Thức (陳式) làm tướng của Hoàng Trung, sau chiến dịch Hán Trung và trận Hào Đình, Trần Thức được phong làm Đại Tướng Quân, phục vụ dưới trướng Lưu Bị. Trần Thức (Cha của Trần Thọ) làm Tham Quân cho Mã Tốc. Mã Tốc trái lệnh làm mất Nhai Đình bị Gia Cát Lượng xử chém.
Mã Tắc (馬謖 – thường gọi Mã Tốc), tự Ấu Thường (幼常), người Nghi Thành, Tương Dương, là tướng của Thục Hán, sinh 190, mất 228, ông có 5 anh em trai, tất cả đều học cao, hiểu rộng, nhưng người giỏi nhất là Mã Lương, anh của Mã Tắc. Mã Lương đi theo Lưu Bị, khi Lưu Bị đang trấn giữ Kinh Châu. Mã Tắc theo người anh đến phục vụ dưới cờ Lưu Bị. Ông được bổ nhiệm làm Tòng Sự Kinh Châu.
Năm 214, Lưu Bị đánh chiếm Tây Xuyên của Lưu Chương, Mã Tắc được gọi vào Thục giữ chức Thành Đô Lệnh, Thái Thú quận Việt Tuyển.
Mã Tắc là người tài cao, học rộng, thấy xa, thích bàn luận mưu mô, chiến lược, chiến thuật. Ông được Khổng Minh Chư Cát Lượng rất trọng vọng. Nhưng, Lưu Bị trước khi mất (223) lại khuyên Chư Cát Lượng không nên trọng dụng Mã Tắc, vì, theo nhận xét của Lưu Bị thì Mã Tắc vốn là kẻ hay cường ngôn (nói quá trớn).
Chư Cát Lượng bỏ ngoài tai lời Lưu Bị, thăng Mã Tắc làm tham quân, và thường gọi ông đến thảo luận việc quân cơ, thường Mã Tắc bàn luận rất sâu sắc. Khổng Minh tỏ ra trọng nể và tỏ ra rất hợp ý nhau.
Năm 225, Chư Cát Lượng xua quân đánh lực lượng quân nổi dậy của Ung Khải tại Nam Trung (đã phản Thục theo Ngô). Mã Tắc ở lại Thành Đô. Trước khi chia tay lên đường, Chư Cát Lượng hỏi kế sách, Mã Tắc khuyên Chư Cát Lượng:
“Hôm nay ngài dùng vũ lực dẹp họ, thì mai có cơ hội họ lại làm phản. Muốn diệt sạch chúng để trừ hậu họa thì kẻ nhân từ không nên làm thế, mà trong lúc vội vã càng khó làm được. Đạo dùng binh nên công tâm là thượng sách, công thành là hạ sách; tâm chiến là thượng sách, binh chiến là hạ sách, hy vọng ngài có thể khiến chúng tâm phục, Nam Trung tự nhiên yên định.” (hai chữ công tâm trong đoạn trên, không có nghĩa là ngay thẳng, nên hiểu là dùng tấm lòng của ta để lay chuyển đối phưong.)
Khổng Minh trố mắt ngạc nhiên, trong lòng vô cùng thán phục, nhưng ngoài mặt vẫn giữ nét điềm nhiên.
Trong cuộc Bắc phạt lần thứ nhất, Mã Tắc là người đã bày kế ly gián để Ngụy Đế Tào Duệ cách chức đại đô đốc của Tư Mã Ý, khiến quân Ngụy thua hết trận này đến trận khác. Điều này khiến Chư Cát Lượng càng nể trọng, tin cậy nhưng không khỏi lo ngại về tài năng của Mã Tắc sẽ đe dọa đường danh vọng của ông ta.
Năm 228, Chư Cát Lượng mang quân đánh Ngụy lần thứ nhất. Ngụy Minh Đế Tào Tuấn sai Tư Mã Ý và Trương Cáp mang quân ra địch.
Để chống với danh tướng Trương Cáp, mọi người đều cho rằng nên dùng mãnh tướng Ngụy Diên hoặc Ngô Ý vì họ đã dày dạn kinh nghiệm trận mạc, nhưng Chư Cát Lượng lại quyết định chọn Mã Tắc làm tiên phong. Mã Tắc được lệnh cùng Vương Bình cầm quân khẩn cấp trấn thủ Nhai Đình. (Sự kiện nầy cho ta thấy, Khổng Minh cố ý sai Mã Tắc là người giỏi mưu lược nhưng không có kinh nghiệm chiến trường. Việc Khổng Minh buộc Mã Tắc cầm binh ra trận với ý đồ mượn tay giặc giết Mã Tắc, vì Khổng Minh đã biết chắc người như Mã Tắc không thể nào thắng được danh tướng lão luyện chiến trường như Trương Cáp của Ngụy.) 
Đến Nhai Đình, Mã Tắc làm ngược lại chiến lược của Chư Cát Lượng đã dặn. Mã Tắc không đóng quân ở nơi đường cái, gần sông là chỗ có nước cho quân sĩ dùng, trái lại mang 2 vạn quân trấn giữ trên núi với chiến thuật “Trên núi đánh xuống, thế như chẻ tre”. Vương Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tắc không nghe. Cuối cùng, Vương Bình đành xin Mã Tắc cho 5.000 người ngựa ra đóng trại dưới chân núi.
Trương Cáp theo sự chỉ đạo của Tư Mã Ý đã mang quân vây trại của Mã Tắc trên núi, rồi cắt đứt đường nước. Quân Thục thiếu nước, hoảng loạn. Trương Cáp dồn sức tấn công phá tan quân Mã Tắc. Cánh quân Mã Tắc bỏ chạy tán loạn. Nhai Đình thất thủ. Đại quân Thục không thể tiến nữa, buộc phải lui về Hán Trung. 

Tam-Quốc-Diễn-Nghĩa

Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quan Trung viết: “Để giữ nghiêm quân pháp, Chư Cát Lượng hạ lệnh bắt giam Mã Tắc vào ngục đợi ngày xử tử hình. Trước khi bị chém, Mã Tắc viết thư cho Gia Cát Lượng, xin hãy nâng đỡ cho vợ con mình. Tướng sĩ nước Thục đều thương xót ông. Khi bị chém, Mã Tắc mới 39 tuổi. Sau nầy, Chư Cát Lượng giữ lời hứa với Mã Tắc vẫn trợ cấp cho gia đình Mã Tắc như lúc ông còn sống.” (Việc Khổng Minh cho trợ cấp nuôi dưỡng vợ con của Mã Tắc chẳng khác nào hành vi của Tào Tháo. Sau khi giết Dương Tu, Tào Tháo bèn cho cấp dưỡng nuôi nấng con cái của Dương Tu. Mục đích là để cho người đời “thấy ta rất yêu mến họ nhưng buộc lòng phải giết họ để răn đe hầu bảo vệ quân pháp.” Hành động của Khổng Minh, Tào Tháo không hẹn mà gặp. Nó chỉ xảy ra ở hạng người ngụy quân tử, luôn giả nhân, giả nghĩa, để che dấu dã tâm.)
Sau khi Mã Tắc chết rồi, Tưởng Uyển thắc mắc hỏi Chư Cát Lượng: “Lẽ ra nên để Mã Tắc sống để có ngày lập công chuộc tội.” Chư Cát Lượng nói rằng, “Bản thân ta cũng rất thương xót Mã Tắc, nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.”(Khổng Minh, nói: Giết Mã Tắc là để giữ nghiêm mệnh lệnh, mà cái mệnh lệnh “làm không đúng sẽ bị tử hình”, Khổng Minh không công bố cho bất cứ người nào trong cuộc chiến đó biết. Điều nầy, chứng tỏ Khổng Minh đã có ý định giết Mã Tắc từ trước.)
Về việc Mã Tắc bị xử tử, sử gia Tập Tạc Xỉ không đồng tình với Chư Cát Lượng. Ông dẫn trường hợp vua nước Tấn không giết tướng Tuân Lâm Phủ khi bại trận, nên về sau có ích cho nước. Còn Sở Thành vương không biết tài năng của Thành Đắc Thần vì một trận thua mà xử tử, nên sau nầy thất bại.
Sau đó Tập Tạc Xỉ phân tích thêm: “Nước Thục hẻo lãnh một phương, nhân tài vốn ít hơn nước khác mà lại giết kẻ tuấn kiệt, coi minh pháp quan trọng hơn nhân tài… muốn thành đại nghiệp há chẳng phải rất khó sao? Huống hồ Lưu Bị vốn đã nói rằng Mã Tắc không nên trọng dụng, Chư Cát Lượng không nghe vẫn dùng ông, bản thân điều này đã cho thấy Mã Tắc là nhân tài không thể xếp xó, không thể khinh sát.”
Đồng thời, Tập Tạc Xỉ phê phán: “Chư Cát Lượng là người điều khiển thiên hạ mà không lượng tài tiết kiệm, trái lời răn của minh chủ, quyết đoán sai lầm, đặt người sai vị trí, giết người tài ba, hữu ích.”
Căn cứ theo lời của Khổng Minh khi trả lời Tưởng Uyển (trên đây): “Bản thân ta cũng rất thương xót Mã Tắc nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.” Thực ra, lời nói nầy của kẻ ngụy quân tử, hoàn toàn giả dối để che dấu lòng dạ hiểm độc của kẻ giả nhân, giả nghĩa, hầu che dấu dã tâm của y. Đã thương tại sao giết? Không còn cách nào khác sao? Còn cho rằng giết để giữ nghiêm quân lệnh thì đó chỉ là cái cớ trong ý đồ thực hiện dã tâm cùng tham vọng chánh trị của Khổng Minh.
Trong khi ngay bản thân Khổng Minh Chư Cát Lượng, cũng đã trái lệnh Vua, khi Lưu Bị răn đe Khổng Minh không nên dùng Mã Tắc. Lưu Bị trước khi mất (223) khuyên Gia Cát Lượng “… không nên trọng dụng Mã Tắc vì ông (Mã Tắc) là người hay cường ngôn” (nói quá trớn).
Nhà vua (Lưu Bị) đã nói trước. Khổng Minh đã trái lệnh vua, còn bất chấp lời khuyên can của các hạ tướng “là nên dùng mãnh tướng Ngụy Diên hoặc Ngô Ý để chống Trường Cáp, vì họ đã dày dạn kinh nghiệm trận mạc.” Rồi tự dùng Mã Tắc theo ý ông ta.
Việc dùng một kẻ chưa có kinh nghiệm chiến trường như Mã Tắc, vô hình trung Khổng Minh đã gián tiếp (qua tay Mã Tắc) đã làm tan rã gần hai mươi vạn quân Thục bởi tay Trương Cáp giết chết. Thử hỏi, tại sao Khổng Minh không thấy được cái lỗi nầy của y?
Vì vậy, sau cái chết của Mã Tắc, Nhà Sử Học Tập Tạc Xỉ phê phán và Tưởng Uyển đã “chất vấn” Khổng Minh như trên, ta có thể hiểu Tạp Tạc Xỉ và Tưởng Uyển đã biết rất rõ lòng dạ sâu hiểm của Khổng Minh trong việc ông ta giết Mã Tắc!
Khổng Minh e ngại Mã Tắc, vì biết Mã Tắc là kẻ tài ba xuất chúng, lại trẻ tuổi, đường tương lai sẽ xán lạn hơn, rất dễ dàng thăng tiến trên đường danh vọng, trong tương lai có thể sẽ lấn át quyền lực và làm giảm địa vị, danh vọng, uy quyền của Chư Cát Lượng, cho nên, nhân dịp Mã Tắc thi hành sai quân lệnh bèn giết trước để giữ thế đứng chánh trị cho bản thân y.
Suy cho cùng cái tội của Khổng Minh bất chấp lời khuyên của vua (không nghe lời khuyên của Lưu Bị) còn nặng gấp trăm ngàn lần hơn khi so sánh với tội của Mã Tắc chỉ vi phạm quân lệnh của quân sư. Trong khi về chiến thuật, thì tướng ngoài trận địa đôi khi cũng không thể tuân hành lệnh vua.
Trong đời sống của con người, chúng ta vẫn thấy có những kẻ bề ngoài cố tình tạo dáng đạo mạo, tập tành cốt cách của nhà mô phạm, nói năng chắt lọc, chừng mực, nghiêm chỉnh, đôi khi còn một kính hai thưa, nhưng trong lòng khát khao danh vọng, chất chứa gươm đao chẳng phải là ít!
Cái chết của Mã Tắc, cách hành xử của Khổng Minh, chẳng những cho ta chiêm nghiệm, hiểu biết thêm lòng dạ của con người… Về phần Khổng Minh, hắn ta rất hoàn chỉnh trong vai trò của ngụy quân tử.
***
Hoàng Trung (黄忠) tự Hán Thăng (汉升), 145-220, quê ở quận Nam Dương thuộc Kinh Châu. Ông là một vị tướng cuối thời Đông Hán và đầu thời Tam Quốc có sức mạnh muôn người là một trong ngũ hổ tướng của Thục quốc, gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân (Triệu Tử Long), Hoàng Trung và Mã Siêu.
Ban đầu, Hoàng Trung theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ huyện Du thuộc quận Trường Sa. Về sau, Tào Tháo đánh chiếm Kinh châu, cho ông làm chức Tỉ Tướng Quân, dưới trướng Hàn Huyền, Thái Thú Trường Sa. Sau Lưu Bị lấy lại Kinh Châu, ông trở về với Thục Hán.
Khi Khổng Minh xua quân đi Bắc chinh (đánh Ngụy) Trần Thức đi theo. Khổng Minh sai 4 tướng Ngụy Diên, Trần Thức, Trương Ngực, Đỗ Quỳnh điều binh qua cửa hang Cơ Cốc. Bốn tướng đang chuẩn bị xuất quân thì Đặng Chi mang lệnh Khổng Minh đến truyền rằng, “Không nên khinh địch, coi chừng có quân mai phục.” Trần Thức không nghe, tự dẫn 5 ngàn quân qua khỏi cửa hang Cơ Cốc mới vài dặm, liền bị quân Tào phục kích, giết trên 4 ngàn quân. Trần Thức nhờ Ngụy Diên đến cứu kịp mới thoát chết.
Khổng Minh CHƯ Cát Lượng được các nhà phê bình văn học Tàu “phong” là: “…  một nhà ngoại giao cự phách và cũng là một nhà phát minh tài năng. Đóng góp lớn nhất của Chư Cát Lượng chính là việc giúp hình thành thế chân vạc tam quốc, liên minh Thục Ngô chống Tào. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử”.
Đọc đoạn trên, ta thấy những nhà phê bình trên đã mọp sát đất tôn phục Khổng Minh và đưa tên tuổi Khổng Minh lên tận trời cao. Đem Khổng Minh ra so sánh với, đặt ngang hang với Tôn Tử hoàn toàn khập khiễng. Tôn Tử để lại đời bộ Tôn Tử Binh Pháp đến nay trên gần 1500 năm vẫn còn hữu dụng. Trong khi Khổng Minh chẳng để lại hậu thế bộ Binh Thư nào! Còn “Thế Chân Vạc” là lẽ tất nhiên nếu sự kiện xảy ra trong một đất nước giữa 3 chế độ quyền lực có 3 thể chế chính trị khác nhau, chứ Khổng Minh chẳng có công lao, mưu chước gì trong việc nầy cả.
Những kẻ tôn xưng Khổng Minh thái quá dường như không nghiên cứu kỹ về Tôn Tử và binh pháp của ông.
Tôn Vũ (孫武) tự Trưởng Khanh, sanh khoảng năm 545, chết khoảng năm 470  (trước dương lịch). Thọ 75 tuổi (cả năm sanh và năm chết đều còn nghi vấn), người Lạc An nước Tề (nay là Huệ Dân – Sơn Đông – Trung Hoa), nhờ bộ Binh Thư mà Tôn Vũ được tôn là Tôn Tử, do sống làm việc ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử, để phân biệt với Tôn Tẫn, người nước Tề được gọi là Tề Tôn Tử.
Tôn Tử Binh Pháp (孫子兵法) là bộ sách viết về chiến lược, chiến thuật do Tôn Vũ soạn thảo năm 512 trước Tây lịch (cách nay 2016, đã 2528 năm), không chỉ đặt nền móng cho binh học truyền thống, mà còn sáng tạo nên một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bởi vậy Binh pháp Tôn Tử được tôn xưng là Tuyệt Tác Binh Thư hàng đầu của thế giới cổ đại. Không những rất được tôn vinh tại Trung Hoa mà kiệt tác này còn được hết mực ca ngợi ở các nước Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên…. đến tận châu Âu.
Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng: Binh pháp Tôn Tử có 82 bài và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn "Ngô Việt Xuân Thu" ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt sửa, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn "Tôn Tử" lưu truyền đến ngày nay. Và khẳng định Tào Tháo đã giữ lại những nội dung chủ yếu của "Tôn Tử", đó là một cống hiến không thể lu mờ được.
Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử Binh Pháp và Tôn Tẫn Binh Pháp đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa. Tháng 7 năm 1978, bản gốc cuốn Tôn Tử Binh Pháp bằng thủ bút của Tôn Tử cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải Trung Hoa.
Vào cuối đời Nhà Hán bộ Binh Pháp của Tôn Tử được Tào Tháo chú giải, sau đó có Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần nhà Tống, Vương Triết, Hà Diên Tích và Trương Dư cùng chú giải. Trong đó bản chú giải của Tào Tháo là có giá trị hơn cả.
Đến năm 1957, Thượng tướng Quách Hóa Nhược của Trung Quốc dựa vào bản khắc đời nhà Tống đã viết lại Tôn Tử Binh Pháp theo thể tân văn ngày nay. Bản này có 13 thiên: Thiên 1, Kế / Thiên 2, Tác chiến / Thiên 3, Công mưu / Thiên 4, Quân hình / Thiên 5, Binh thế / Thiên 6, Hư thực / Thiên 7, Quân tranh / Thiên 8, Cửu biến / Thiên 9, Hành quân / Thiên 10, Địa hình / Thiên 11, Cửu địa / Thiên 12, Hoả công / Thiên 13, Dụng gián.
Sau khi dịch, Quách Hóa Nhược chia thành 13 bài là: 1. Bàn về chiến tranh / 2. Tiến công chiến / 3. Tốc quyết chiến / 4. Vận động chiến / 5. Chủ động tính / 6. Linh hoạt tính / 7. Địa hình / 8. Sử dụng gián điệp / 9. Phán đoán tình huống / 10. Hoả công / 11. Quản lý giáo dục / 12. Quan hệ chỉ huy / 13. Tu dưỡng của tướng soái. Xong, chia thành 108 đoạn.
Từ thế kỷ 7, Binh pháp Tôn Tử đã vào Nhật Bản do sứ thần đưa về, không lâu truyền đến Triều Tiên. Đến thế kỷ 18 truyền vào châu Âu, qua các quốc gia Pháp, Anh, Đức rồi lan khắp toàn thế giới.
Còn Khổng Minh Chư Cát Lượng đã để lại cái gì? Ngoài ba cái phát minh nhỏ nhặt cho trận địa. Khổng Minh chẳng để lại hậu thế bộ binh pháp nào cả.
Nhà Sử Học Trần Thọ “phê” Khổng Minh, “Danh quá kỳ thực.” (tiếng tăm vượt quá tài năng) rất chính xác! Trên thực tế, tài cán Khổng Minh chỉ “thường thường bậc trung” (Kiều), ông ta chỉ được cái dẽo miệng. khéo ăn, khéo nói mà thôi!
Trước kia Tào Tháo đã không ngần ngại khi đánh giá: “Khổng Minh là loại vô năng.” Nhiều mưu kế của Khổng Minh chỉ sao chép lại chiến lược của người đi trước rồi xén bớt hoặc gia thêm. Chẳng khác nào rượu cũ trong bình mới.
Tào Tháo đánh giá Khổng Minh như thế chỉ đúng một phần rất nhỏ ở con người thật, bản chất thật của Khổng Minh. Thực tế tài năng của Khổng Minh chẳng là bao, nhưng bản chất đố kỵ, ganh tỵ và mượn điều nhân nghĩa để che đậy cái dã tâm thì quá lớn!
Ngay trước khi chết, Khổng Minh vẫn còn nặng việc tư riêng hơn vì nghĩa vụ chung. Đoạn văn sau trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, cho ta thấy rõ điều đó.
La Quán Trung viết, “… sau khi Khổng Minh qua đời Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Viêm nghe tin trong số quan quân triều đình của ông có viên tướng quân là hậu duệ của Chư Cát Lượng, Viêm bèn nghĩ cách trừng trị người này.
Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng mang họ Chư Cát, bén truyền lệnh người mang họ Chư Cát đến diện kiến. Trên kim điện, Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”.
Kẻ “tội đồ” họ Chư Cát bèn thật thà thưa với Tư Mã Viêm lời dặn dò của Gia Cát Lượng. Nghe xong, Tư Mã Viêm bèn truyền lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem. Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là: đúng hoàng thượng mới mở ra xem).
Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm lập tức làm theo. Vừa đứng vững bỗng nghe thấy một tiếng “rầm” thật lớn, chiếc xà nhà ngay chỗ Tư Mã Viêm vừa ngồi tự nhiên rơi thẳng xuống ngay chỗ ông ngồi, khiến bàn ghế tan tành. Tư Mã Viêm thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”.
Tư Mã Viêm là vua nước Ngụy, kẻ thù của Thục Hán tại sao Khổng Minh không để cho cây xà nhà rớt xuống cho hắn chết đi? Tại sao lại bảo Tư Mã Viêm phải “lùi ba bước” để tránh họa vào thân? Phải chăng ông ta vì một kẻ chỉ mang họ Chư Cát để rồi phải ra điều kiện với kẻ thù của Thục Hán: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Điều nầy đã chứng minh cho ta thấy, Khổng Minh chỉ biết lợi riêng mà bỏ nghĩa công.
Tác giả La Quán Trung, vốn xuất thân vào hàng thế gia vọng tộc, có thể tổ tiên ông ta được nhiều ân sũng của Hán triều, nên trả ơn bằng cách “đưa” những nhân vật của Thục Hán trong Tam Quốc Diễn Nghĩa lên tận mây xanh.
Chẳng hạn, họ “phong” cho Khổng Minh Chư Cát Lượng là “thần cơ diệu toán, mưu lược nghìn lần không sai một.” Nhưng, từ năm 227, ông ta xua quân ào ạt Bắc chinh, vượt Kì Sơn, giao chiến với quân đội Nhà Ngụy ở phía Bắc không gặt hái được kết quả nào. Sau đó, Khổng Minh tiến hành thêm 5 lần Bắc chinh nữa cũng chẳng thu tóm được nước Ngụy.
Năm 234, Chư Cát Lượng tiến hành cuộc Bắc chinh lần thứ bảy, giữa đường thì lâm bệnh nặng chết. Thực tế, trong 6 lần đánh nước Ngụy, Khổng Minh không trực tiếp đi cả 6 lần, mà chỉ ra Kỳ Sơn có vài lần.
Nếu là “Thần cơ diệu toán”, tại sao trước khi mở những cuộc Bắc chinh Khổng Minh không tiên đoán trước để tránh hậu quả đi không về rồi?
Đem quân đi xăm lược nước người, dù trực tiếp điều binh khiển tướng hay gián tiếp ngồi nhà chỉ huy, khiến quân lính gian khổ, hao tốn công quỹ mà không gặt hái được kết quả, đồng nghĩa với thua. Điều nầy, minh chứng cái nhìn của Khổng Minh đánh giá vào nước Ngụy quá kém cỏi, tồi tệ, không biết người chẳng biết ta, thì làm sao thắng địch? “Thần cơ diệu toán” ở đâu mà để cho sáu lần hành quân xăm lăng nước người đều không thành công. Đến lần thứ bảy, vì lo nghĩ nhiều, mất ăn mất ngủ bị bệnh rồi chết trong quân trại. Thử hỏi, những kẻ đã cho Khổng Minh Chư Cát Lượng là “thần cơ diệu toán” thì “thần cơ diệu toán” ở chỗ nào?
Như vậy, việc đọc di thư của Khổng Minh để lại, cứu Tư Mã Viêm thoát chết do nạn trần nhà rơi xuống, hoàn toàn do La Quán Trung chỉ vì tinh thần hoài Hán mà mà bịa ra!
Ngoài ra, khi viết về Khổng Minh Chư Cát Lượng, La Quán Trung còn sai lầm ở các chỗ sau đây:
– “Từ Thứ ra đi đã vòng lại để tiến cử Chử Cát Lương.” / Thực ra, Từ Thứ và Chư Cát Lượng cùng phục vụ Lưu Bị trong một thời gian trước đó. (Như vậy tất nhiên không có chuyện Từ Thứ đi rồi vòng trở lại để tiến cử Khổng Minh?)
– “Chư Cát Lượng bày kế cho Lưu Bị hỏa thiêu gò Bác Vọng” / Thực tế, Lưu Bị tự đốt Bác Vọng trước khi có Chư Cát Lượng.
– “Chư Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã.” / Trong khi trận Tân Dã không có thật trong chánh sử.
– “Chư Cát Lượng đối đáp với quần nho ở Đông Ngô.” / Thực ra, Chư Cát Lượng sang Đông Ngô chỉ để đề nghị liên minh. Không có chuyện đối đáp.
– “Chư Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước của Tào Thực để khích Chu Du đánh trận Xích Bích.” / Chánh sử chép: “sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài Đồng Tước, sau khi đài đó xây xong Tào Thực mới làm bài phú.”
– “Chư Cát Lượng dùng "thuyền cỏ mượn tên", thu hàng vạn mũi tên của Tào Tháo trong trận Xích Bích.” / Thực tế, Tôn Quyền mới là người dùng thuyền cỏ hứng để lấy (mũi) tên của Tào Tháo trong trận Nhu Tu, năm 213.
– “Lỗ Túc theo lệnh Tôn Quyền và Chu Du đi “đòi Kinh châu”. Lưu Bị và Chư Cát Lượng “trả ơn” xương máu của người Giang Đông bằng cách chấp nhận ký giấy “mượn Kinh châu.” / Trong khi chánh sử chép đoạn nầy (trích): “Lưu Bị và Gia Cát Lượng sang thỉnh cầu Tôn Quyền để được bàn giao Giang Lăng, hầu đánh đổi nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ vừa mới mất.”
– “Bàng Thống bị Trương Nhiệm bắn chết ở gò Lạc Phượng, sau đó Chư Cát Lượng bắt Trương Nhiệm.” / Thực ra, Bàng Thống chết ở Lạc Thành, Lưu Bị tự chiếm Lạc Thành và bắt Trương Nhiệm.
– “Tôn Quyền bắt giam gia quyến Chư Cát Cẩn (anh của Chư Cát Lượng), gây sức ép buộc Lưu Bị trả 3 quận Trường Sa, Linh Lăng và Quế Dương.” / Chánh sử chép: “Tôn Quyền tập kích phía nam Kinh châu, chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa.”
– “Chu Du chết vì bị Khổng Minh chọc tức 3 lần, trước khi chết còn uất ức than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng!” / Chánh sử: “Chu Du vì đau ốm mà chết!” (không phải do Chư Cát Lượng chọc tức. Và. sử sách không hề đề cập đến chuyện Chu Du than thở câu trên.)
– “Kế Không Thành” của Chư Cát Lượng / Không do sáng kiến của Khổng Minh, mà là ĂN CẮP kế sách của tướng Tống trong chiến tranh giữa Lưu Tống và Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều, rồi bày KẾ KHÔNG THÀNH tương tự như vậy.
– “Chư Cát Lượng mắng chết Vương Lãng ngoài mặt trận thời Tào Tuấn.” / Thực tế, hai người chỉ gởi thư từ qua lại thời Tào Phi. Không có chuyện Vương Lãng chết vì bị Chư Cát Lượng mắng.
– “Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng và Tương Dương từ tay Tào Nhân, phỗng tay trên của Chu Du khiến Chu Du uất ức mà thổ máu.” / Thực tế, Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương (thời Tam Quốc, nước Ngụy chưa từng mất nơi nầy), còn Chu Du chiếm được Giang Lăng năm 209.
 
(Xin mời quý độc giả xem tiếp bài 2)
 
T.Q.M

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét