Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

HAI ỐM – Truyện ngắn của Võ Anh Cương

saigon
Đón được chiếc tắc xi tôi lên xe và nói với cậu lái xe cho tôi về Gò Vấp. Tôi lấy làm lạ, tôi đã đi Sài Gòn nhiều lần rồi nên biết thế nào là những con đường đông đặc người và xe, vậy mà giờ tôi thấy con đường Điện Biên Phủ rộng rinh, lác đác vài chiếc xe thong dong đang chạy. Như đọc được ý nghĩ của tôi, người lái tắc xi nói: “Chắc là cả nửa thành phố đi chơi lễ, lái xe mấy ngày này thật dễ chịu.”. 
Không biết anh nói với tôi hay nói với chính mình, nhưng câu nói của anh khiến tôi sực nhớ hôm nay là ngày 30 tháng 4. Hèn nào, tôi nghĩ. Thiên hạ đi chơi hết nên thành phố trông rộng ra, giống như lần đầu tiên mình đến Sài Gòn. Ý nghĩ đó dẫn tôi trở lại tuổi thơ tôi, lúc đó là những năm sáu mấy, tôi chỉ là một chú nhỏ nhà quê đang học lớp nhì lần đầu tiên theo chị lên một thành phố lớn. Sài Gòn lúc ấy xe cộ còn thưa thớt nhưng với tôi Sài Gòn đã là một sự ngưỡng mộ. Tôi nhớ nhà chị tôi mướn nằm trong một con hẻm gần chợ Vườn Chuối. Đối diện nhà chị tôi là một căn nhà gỗ khá rộng, trước sân trồng một cây mận lúc lỉu trái hồng cả một khoảng trời. Tôi chỉ dám nhìn thôi, phần vì lạ nước lạ cái, cái tính hoang đàng dù sao cũng bị cưỡng chế, phần vì nhà bên có hai cô con gái nên tôi không dám đụng vào. Hai cô chắc là cỡ tuổi tôi hoặc ít hơn gì đó, nhưng là người thành phố nên lanh lợi và nắm thóp một thằng nhỏ nhà quê như tôi. Nếu ở nhà, cái cây mận kia không thể nào thoát khỏi tay tôi, nhất định tôi sẽ hái cho bằng hết cho dù bị lỡ có bị đòn. Một buổi chiều tôi ngồi bên cửa sổ nhìn qua nhà hàng xóm, thấy tôi nhìn hơi lâu cây mận một chút, đứa chị trợn mắt: “Ê, không được hái trộm nghe chưa?”. Chẳng biết cô bé nói với ai, tôi cứ nhìn lom lom vào cây mận. Thấy vậy, con bé càng tức: “Ê, cái đồ nhà quê nghe không hả?”. Nói xong nó lấy một trái mận ném về phía tôi, trái mận bay vụt qua tôi rớt xuống nền nhà vang lên một tiếng bịch. “Nếu là ở nhà tao mày sẽ biết tay!”, tôi nghĩ nhưng lập tức tôi biết mình là người lạ nên cố ghìm cơn tức đang nhen nhóm trong lòng. Thấy mặt tôi chắc căng thẳng, đứa em cầm một chùm mận chạy qua nhà tôi. Nó đến trước cửa sổ, nơi tôi đang ngồi trong nhà nhìn ra, bàn tay nho nhỏ của nó đẹp lạ lùng, nó đưa tôi chùm mận: “Anh ơi, em cho anh chùm mận nè, đừng chơi với chỉ, chỉ bị má la hoài vì tội hỗn hào đó anh”. Cô nhỏ méc tội của chị nó như thể tôi là một người lớn, là anh nó chẳng hạn. Nghe câu nói của cô nhỏ, mặt tôi lúc đó chắc dãn ra, tôi nói anh cám ơn em nghe, em dễ thương quá! Cô nhỏ cười hồn nhiên chạy về nhà, không biết một cặp mắt của tôi nhìn theo cái áo đầm màu hồng của nó. Cái áo đầm tuổi thơ theo tôi nhiều năm và chắc là sẽ đi theo suốt cuộc đời bởi tôi thích màu hồng từ ngày ấy. Bây giờ không biết “cô nhỏ ngày xưa” còn hay đã mất, nếu còn chắc đã lên bà, gặp lại tôi cũng sẽ không nhìn ra đâu….
 Người tài xế tắc xi hỏi “rẽ đường nào chú ơi, đã qua siêu thị rồi?”. Tôi chỉ đường cho anh ta, câu hỏi vô tình của tay tài xế khiến tôi nhớ đến lần hỏi đường cô nhỏ. Đó là một chuyến phiêu lưu khám phá Sài Gòn của tôi. Và tôi đã đi lạc. Không lạc mới lạ trong mê tận hẻm với những con hẻm na ná như nhau, những ngôi nhà, những loại cây trồng trên ban công làm tăng độ mát cho ngôi nhà trông không khác gì nhau. Tôi lạc trong mê trận hẻm đó, thứ mà ở quê tôi không có và không biết làm sao về nhà chị dù biết chắc rằng đối diện nhà chị tôi có một cây mận và hai đứa con gái một thấy mặt là ghét và một thấy mặt dễ thương. Đang lúc cố cùng tôi thấy một cô nhỏ từ một căn nhà bước ra, “đứa em”, tôi mừng quýnh nói em ơi, chỉ dùm anh đường về nhà với? Cô nhỏ nhìn tôi lom lom: “Anh đi đâu mà qua tận xóm này?”. Tôi ngắc ngứ, nói thiệt thì sợ bị chê là “cù lần”, thấy vậy cô nhỏ nhoẻn miệng cười: “Vậy theo em về nhà héng!”. Bữa đó tôi được đi bên cô nhỏ, nghe em kể chuyện học, chuyện nhà, chuyện bạn em…mỗi thứ một chút mà sao tôi cứ tưởng đang sống trên mây.
Mấy chục năm rồi. Sài Gòn đổi thay từng giờ lận, tôi không thể nào nhận ra con hẻm ngày xưa là cái chắc. Cư xá Đô thành mà ngày xưa tôi đi lạc không biết bây giờ còn xôn xao tiếng chim hót như ngày trước? Không biết mấy ngày tới tôi có dịp để ngang qua chốn kỷ niệm xưa?
Nhà bà chị tôi đây rồi, con hẻm đã biến thành một con đường thảm nhựa, có tên hẳn hoi: đường số 4. Mấy năm trước chỉ là con đường đất, chỗ lồi chỗ lõm, không biết ai đã phóng con đường này để phân lô bán nền? Tôi chỉ biết tên vùng này là Làng Hoa, bây giờ không thấy hoa đâu cả, chỉ thấy ồn ào phố xá, người ta đang trôi trong cái không gian náo nhiệt của một vùng đô thị!
Tắm xong tôi dạo chơi một vòng trong khi chờ mấy đứa cháu về ăn cơm. Tôi đi theo con đường số 4, quẹo qua số 3 và ra đến một con đường lớn hơn, có tên đàng hoàng: đường Lê Văn Thọ. Vẫn dòng xe cộ thưa thớt, trên lề đường vài người xe ôm dáng mệt mõi chờ khách. Cái kiểu ngồi của một người xe ôm khiến tôi chú ý, anh ta ngồi hẳn lên chiếc yên xe, hai bàn chân thô ráp đặt trên cái yên chắc đã lâu lắm chưa thay bọc, còn hai tay thì vòng qua ôm đầu gối vào lòng. Thấy tôi nhìn, người xe ôm hỏi liền: “Đi đâu chú ơi, tui chở cho?”. Tôi đang đi dạo một vòng ngắn rồi về nhưng khi nhìn vào đôi mắt háo hức chờ đợi của cậu xe ôm tôi thấy tồi tội, chắc đang ế khách đây. Tôi nói chở giùm tôi ra một nhà sách, cậu biết nhà sách nào lớn lớn chút không? Người xe ôm cười: “Dưới ngã sáu có nhà sách Văn Lang lớn lắm, chú lên xe đi!”.
Tôi bắt chuyện với cậu xe ôm: sáng giờ chạy xe khá không? Như động đến nỗi niềm cậu xe ôm nói “khá gì chú ơi, ế òm à”. Tôi hỏi sao vậy? “Lễ mà chú người ta đi chơi xa hết cả rồi, chú coi nếu bữa qua xe cộ chạy ngợp trời chớ đâu vắng ngơ vắng ngắt như bây giờ?”. Tôi nói vậy sao dù trong bụng đã biết chuyện này. Tôi tiếp cậu người đâu ta? Cậu xe ôm vừa tránh một chiếc xe vừa nói “cháu ở ngoài Trung, Bình Định!”. Tôi hỏi tiếp vậy cậu vô đây lâu chưa? Người chạy xe ôm nói “cháu vô cũng lâu rồi, lúc trước thì vô có một mình giờ thì đưa cả gia đình vô luôn năm rồi…”. Mới nói đến đó xe đã chạy đến nhà sách Văn Lang. Đúng như cậu xe ôm nói, đây là một nhà sách lớn lại có vị trí khá đắc địa nên giờ này mà bãi xe gần kín chỗ. Xe dừng lại tôi nói thôi cậu chở tôi ra quán cà phê nào đó mình ngồi nói chuyện chơi, còn nhà sách mai mốt tôi vô cũng được?
Thấy vẻ ngần ngừ của cậu xe ôm, tôi hỏi bộ cậu mắc công chuyện sao? Cậu ta cười “công chuyện thì cháu lúc nào cũng phải làm chỉ sợ chú khi không mà tốn tiền mời cháu uống cà phê thôi!”. Tôi nói cậu ngại chi cái chuyện nhỏ đó, không phải khi không tui mời cậu uống với tui một ly cà phê đâu, tui cũng quê Bình Định, nghe giọng xứ Nẫu của cậu khiến tui nhớ quê quá nên mời cậu uống cà phê để nghe giọng nói xứ mình mà!
Quán ven đường cái nào cũng giống nhau. Mấy bộ bàn ghế có dựa được đặt quay ra đường, nhạc vang vang trong quán vắng. Hai ly đen đá được một cô nhỏ bưng ra kèm theo hai ly nước trà đá, dưới có đặt cái miếng lót dường như làm bằng sợi lục bình. Cậu xe ôm lấy máy gọi ai đó với một giọng gia trưởng rồi tắc máy liền. Cậu hỏi tôi “hồi nãy chú nói người Bình Định vậy quê chú huyện nào?”. Tôi cười nói thiệt với cậu má tôi người xứ Nẫu, bà xa quê lâu rồi nhưng mà bà vẫn nói rặt thứ tiếng nhà quê. Tôi nghe nói má tôi ở thôn Trường Định, huyện Bình Khê chớ tui chưa về quê ngoại lần nào! Cậu xe ôm cười “tậu chết đi chú, quê ngoại mà sao không dìa, bây giờ huyện Bình Khê được đổi tên là huyện Tây Sơn”. Tôi cũng cười nói tiếp cậu đừng cười, má tôi xa quê cũng lâu rồi, hồi bà còn sống bà cũng về thăm quê mấy lần, sau này bà con không còn ai nên đâu có về làm gì? Cậu xe ôm ra vẻ quan tâm “Dẫy na!”. Nói tới đó không hiểu sao cậu chợt im lặng. Tôi nghĩ thầm trong bụng chắc là thằng này nhớ quê rồi. Tôi nhìn vào cặp mắt cậu xe ôm, cậu đang nghĩ gì mà mắt nhìn xa vắng? Bỗng nhiên tôi nhận ra tôi…cũng nhớ quê như cậu xe ôm bởi tôi vừa nhận ra tôi đồng cảm với cậu này. Tôi hỏi nãy giờ nói chuyện mà không biết tên nhau, tôi tên Hiếu còn cậu tên gì? Cậu xe ôm như sực tỉnh: “Tụi bạn kêu cháu là Ốm, Hai Ốm”.
Tôi quan sát Hai Ốm. Đúng người sao thì tên vậy, Hai ốm thiệt chừng năm chục ký lô là cùng, được cái là khá cao dễ tới một mét bảy mươi nên coi bộ càng cao hơn với cái mông lép xẹp tay chưn dài thòng. Tôi hỏi tiếp vậy cậu vợ con ra sao rồi? Hai nói “cháu hai đứa, năm rồi đưa cả nhà vô đây làm dân nhập cư KT3”. Rồi Hai kể bằng chất giọng thiệt của mình chớ không ráng pha tiếng cho giống dân trong này. Thì cũng giống như vô vàn những câu chuyện tôi đọc được và nghe được trong mấy năm nay. Ở nhà quê ruộng ít làm không đủ ăn phải bươn chải kiếm sống. Đầu tiên Hai vô nhà ông cậu. Ông cậu này vô Sài Gòn từ hồi Sài Gòn còn có tên là Sài Gòn. Ở nhờ nhà ông cậu kiếm đủ thứ việc để làm, tháng tháng gởi về quê vài ba triệu bạc để “mẹ con nó sống”. Rồi thằng con thi đậu trường Bách Khoa. Tôi nghĩ thầm trong bụng: ờ, sao mấy đứa học giỏi đều là con nhà nghèo cả ta? Thằng con của Hai chắc là học giỏi, thi đậu trường Bách Khoa chớ có phải chuyện chơi đâu. Tôi ngắt lời Hai vậy chớ thằng nhỏ chọn ngành gì? Hai ngớ người: “Cái dụ này cháu cũng không biết, để coi cái gì như là…như là tin tức gì đó?”.
Tôi ngạc nhiên thật sự, chắc là Hai lộn rồi, thằng nhỏ thi đậu trường Báo chí mới liên quan đến tin tức chớ? Hai khẳng định “cháu không lộn đâu, chắc chắc là có chữ tin mà!”. Tôi nghĩ một hồi thì mới nhận ra. Ý Hai muốn nói là thằng nhỏ đậu khoa Công nghệ thông tin, tôi hỏi và Hai gãi đầu “đúng đó chú, mà sao chú biết hay vậy, thông tin với tin tức gì thì cũng như nhau mà?”. Tôi cười một trận đã đời. Nhờ đó giữa tôi và Hai gần nhau hơn. Hai kể tiếp “vậy là kéo cả nhà vô đây luôn, con Ba đang học lớp mười cũng vô đây đi học, lúc rảnh giúp má nó làm việc”. Tôi hỏi vậy vợ cậu làm chuyện gì? “Thì đi dọn dẹp lau quét nhà theo giờ cho người ta đó chú, mà bả đắc khách lắm nghe, ngày nào cũng có chỗ làm, sáng sáng bả đi làm như người ta đi làm…công chức vậy”. Hai cũng có óc hài hước chớ, tôi cười và nghĩ, ừ nhiều khi Hai nói đúng, công chức là công bộc của dân mà? Nghĩ tới đó cái cục tự ái trong một tên cựu công chức như tôi thấy cục cựa. Mà thôi, chánh văn phòng Sở V. của tôi đã như nước chảy bèo trôi qua rồi, tự ái nỗi gì?
          Hai tiếp “còn cháu trước thì làm lung tung, hễ có việc là làm, giờ thì cháu ổn định rồi”. Tôi hỏi có chút tò mò vậy tôi mừng cho cậu, mà nè cậu chạy xe ôm chắc khá? Hai cười, “xe ôm mà khá nỗi gì, chạy xe ôm chỉ là một nửa công việc của cháu thôi, cháu chỉ chạy xe từ trưa tới tối, kiếm được đồng nào hay đồng đó, từ tám giờ tối cháu làm việc khác, lãnh lương đàng hoàng”. Thấy Hai có vẻ tự hào về  chuyện này tôi nhướng mày ngạc nhiên. Hai nói tiếp liền “mà công chuyện của cháu ban đêm cũng dính tới chiếc xe này”. Hai đưa mắt nhìn chiếc Future dựng trước cửa quán, nhìn ánh mắt của Hai tôi thấy Hai nhìn chiếc xe y như người mẹ nhìn đứa con của mình: âu yếm và say đắm! Tôi chờ Hai giải thích với mớ ý nghĩ không trong sáng trong đầu. Quả là lạ, người ta mà làm cái chuyện gì trong đêm tối cũng bị thiên hạ nghĩ là công việc không đàng hoàng bởi đêm thì đen, mà cái đen thì che giấu hành vi tội lỗi. Còn Hai, không lẽ Hai cũng làm một việc không đàng hoàng tỷ như…dắt gái? Chắc Hai không biết tôi nghĩ xấu về Hai, mắt Hai vẫn chưa hết cơn say đắm khi nhìn về chiếc xe thân yêu. Đó là trong một tích tắc tôi nghĩ ra điều đó chớ Hai thì giải đáp thắc mắc của tôi liền: “Cháu giao hàng cho một tiệm cơm tấm!”.
          Tôi hỏi không lẽ đêm còn có người ăn cơm sao? Hai cười cho sự ngây thơ của tôi: “Xời ơi chú, người ta còn ăn nhiều là đằng khác, đang đêm đói bụng mà có một hộp cơm với miếng thịt nướng, miếng trứng chiên với chút bì chan thứ nước mắm chua ngọt thì còn gì bằng?”. Tôi lại biết thêm một nghề ở thành phố năng động này. Qua chuyện kể của Hai tôi cố hình dung cảnh thằng sinh viên cày games thâu đêm suốt sáng hay những khuôn mặt hốc hác mất ngủ của mấy người làm tăng ca nhưng tôi chịu, đó chỉ là những khuôn mặt nhạt nhòa không đường nét. Hai vẫn thao thao kể về những vụ đi tìm địa chỉ, dù vùng này Hai rõ như lòng bàn tay. Rồi những lần khách không chịu nhận hàng bởi Hai đem quá trễ Hai phải chở về nhà ăn thay cơm hay có tay khách còn bo cho mấy chục khi Hai đem cơm tới còn nóng hổi….Rồi Hai bắt qua chuyện thằng con. “Nói chú mừng, thằng Hai học giỏi lại có hiếu nữa, nhiều đêm nó nằn nì xin cháu cho nó chạy giùm, ba về nhà ngủ chớ thức khuya lõ con mắt chịu sao đặng? Nhiều bữa cháu cũng cho nó chạy thử để nó dạn với đời, nhưng cháu mượn xe của Tám Tàng chạy sau để coi chừng thằng nhỏ. Mà thằng nhỏ chạy ngon quá chú, nó cũng thuộc địa bàn….” Hai ngừng một chút rồi nói tiếp “có bữa bà chủ quán mua cho thằng con cái máy di tính mới, dư cái cũ bả bán, cháu định mua trả góp cho thằng Hai có cái học. Tội nghiệp học cái ngành đó mà nó không có cái máy thì sao được, con bà chủ quán nói. Cháu về hỏi nó, nếu thằng Hai chịu thì cháu mua cho, ráng góp một năm là được thôi. Mới nhìn cái máy cháu mang về cho thằng Hai coi, mắt nó sáng lên. Nó ngần ngừ như suy tính chuyện gì một hồi rồi mới coi máy. Cháu thấy cái máy hiện lên cái hình một cô đẹp quá chừng chừng. Còn thằng Hai thì cau mặt lại, nó đóng cái máy cái cộp rồi nói ba đem trả cho người ta, máy này mua làm gì chạy chậm rì rì, mà nhà mình đâu có dư dã gì, để con học ké với máy của tụi bạn là được rồi. Nói thiệt với chú cháu thấy cái máy để một chỗ chớ có phải cái xe máy đâu mà cần nhanh với chậm?”.
          Chia tay Hai tôi gởi biếu Hai chút tiền gọi là tiền câu chuyện cà phê, ngồi với tôi nếu có người kêu chạy xe thì mất thu nhập, tôi nghĩ vậy. Nhưng Hai không nhận, Hai nói “một nửa đồng hương cũng là đồng hương, ai lại lấy tiến uống cà phê bao giờ, tậu!”.  Đêm đó tôi đi gặp anh Bốn. Cha, cái chuyện anh Bốn này tôi cứ cười hoài. Anh Bốn hơn tôi mấy tuổi, tôi đoán thế. Chẳng là tôi quen anh Bốn trên mạng, anh Bốn hay viết bài trên một trang mạng của những người nhớ quê miền Trung. Trang văn nghệ của tình bằng hữu đó tiếng là một trang địa phương do những người xa quê lập ra nhưng lại quy tụ nhiều người trên cả nước viết bài. Anh Bốn Xóm Đình với giọng văn diễu cợt rất thân tình đã khiến rất nhiều người thích. Anh Bốn dường như đem chuyện của mình ra kể. Kể từ thuở còn đi bộ đội, đến sau này làm nhà báo viết bài kiếm tiền mua sữa cho con, giờ anh Bốn già rồi tham gia trang mạng với niềm vui của người từng trãi. Tôi lại lan man nghĩ về cái tên anh Bốn Xóm Đình. Ừ làng xóm dường như bao giờ cũng có trong tâm thức của người Việt Nam. Xóm luôn luôn chỉ một nhóm nhà gần nhau và tên gọi bao giờ cũng dựa vào địa hình, địa vật để lấy làm tên. Xóm Chùa, Xóm Giếng, Xóm Đình…xóm nhà tôi ở cũng có tên nhưng không hay lắm: đó là Xóm Ba Nhà. Ba cái nhà ở lẫn trong một khu rừng thông nằm ngoài rìa của Viện Sinh học Tây nguyên ít người biết tới. Xóm cô đơn đó vậy mà có chuyện, cô Thu hàng xóm tôi có đứa con mười lăm tuổi bỏ nhà đi bụi, cô nhờ tôi vô Sài Gòn tìm giùm đem nó về học tiếp bởi có người thấy nó leo lên xe Thành Bưởi. Sài Gòn rộng bao la bát ngát làm sao tôi tìm cho được thằng Trung? Nhưng khi nhìn vào cặp mắt hoe đỏ của cô Thu tôi thấy tồi tội, ừ đang rảnh sao mình không đi một chuyến Sài Gòn? Tôi từ chối món tiền của cô Thu, làm sao tôi có thể lấy tiền của một người mẹ chuyên đi làm cỏ mướn nuôi hai con ăn học? Chồng Thu bỏ đi khi đứa con thứ hai ra đời chừng một tháng….
          Thằng cháu ngừng xe ở một quán cà phê, nơi tôi offline gặp anh Bốn. Đó là Country House, một quán cà phê đình đám ở Gò Vấp. Nói là quán vì thói quen chớ cái House này tòa ngang dãy dọc, lầu các, suối nhân tạo, núi đá cây cỏ…mênh mông. Anh Bốn đưa tôi ra một bàn dưới gốc một cây Ngọc Lan cạnh một cái cầu bên dưới nước róc rách chảy. Anh em lần đầu mới gặp nhưng dường như đã thân quen, chuyện nổ ra như pháo. Anh kể chuyện có đứa con kêu bằng bố khiến anh bị nghi có con rơi khi nằm viện nó tới chăm sóc. Anh cười khà khà nói nếu được vậy thì quá đã bởi thằng đó giỏi giang, tui chỉ là bố tinh thần của nó thôi bởi tui chỉ chở giùm mẹ nó đi bệnh viện khi đau đẻ nó, còn bố ruột nó là đồng đội tui thì đi công tác…. Tôi kể chuyện cô Thu hàng xóm ở Xóm cô đơn có thằng con đi bụi….Anh Bốn nói chà bây giờ chuyện như vậy nhiều lắm, nhiều đứa đi như vậy lại thành công, còn có đứa thì thân tàn ma dại, anh chỉ tôi đi dò hỏi ở mấy lò may gia công hay thu nhận mấy đứa loại này. Tôi trình bày Sài Gòn thì rộng, tôi thì không rành….Anh Bốn cắt ngang: yên tâm đi để mai tui kêu thằng cháu chạy xe ôm tới chở anh đi, nó làm nghề này nên ngóc ngách nào nó cũng biết, biết đâu tìm ra thằng nhỏ cho anh. Rồi anh chuyển qua chuyện đứa cháu chạy xe ôm. Tôi ngồi yên lắng nghe tiếng anh Bốn lẫn trong tiếng nhạc và tiếng róc rách của dòng nước dưới cầu càng làm cho khung cảnh thêm thi vị. Thì chuyện tình yêu nào mà không thi vị? Huờn yêu Thu đã làm đám hỏi. Rồi hai người hiểu lầm nhau khi Thu thấy Huờn chở một người con gái khác. Thu đem trả lễ, đòi lại mấy cái khăn tay thêu hình cặp bồ câu cô tặng Huờn rồi đùng đùng bỏ đi lấy chồng ở tận Gia Lai. Bốn năm sau Thu bồng hai đứa con nhỏ về quê, chồng Thu chết vì tai nạn….Tình cũ không rủ cũng tới mà, Huờn qua nhà Thu ngày một. Một hôm Huờn tuyên bố xanh dờn: Huờn sẽ lấy Thu, nuôi con Thu như con ruột mình. Mặc cho mọi người can ngăn, Huờn vẫn làm theo ý mình. Ai nói gì thì nói, coi bộ Huờn và Thu nối lại tình xưa hạnh phúc dữ. Lấy nhau đã mấy năm trời mà Huờn không có con, trước khi chết bà chị anh Bốn cứ cằn nhằn hoài vì cái chuyện này. Hóa ra Huờn khi lớn mới bị bệnh xưng má chàm bàm thì làm sao có con được? Huờn vô Sài Gòn này làm thuê đủ kiểu, rồi Huờn mang vợ con vào, vợ Huờn đi dọn dẹp nhà cửa thuê theo giờ…Tôi ngắt lời anh Bốn kể cái chuyện Huờn có hai đứa con, thằng lớn đang học Bách Khoa, khoa Công nghệ thông tin, con nhỏ thì đang học lớp mười….Anh Bốn trố mắt ngạc nhiên hỏi sao tôi biết? Tôi cười kể chuyện tám hồi chiều với Hai Ốm rồi tả dáng người của Hai. Anh Bốn suy nghĩ một hồi rồi nói “chắc người giống người, thằng cháu tui tên là Huờn, tui chưa nghe ai kêu nó là Hai Ốm bao giờ, mà nó thứ ba mà…”.
          Lúc Hai Ốm chở tôi đi rà khắp các nơi nghi ngờ sử dụng lao động trẻ em mà đâu có gặp Trung, tôi hỏi Hai Ốm có phải tên Huờn? Hai cười cười:
          – Cậu Bốn không biết tên Hai Ốm đâu, bởi cái tính cháu hay giúp người nên anh em xe ôm đặt tên cho cháu là anh hai Sài Gòn mà cháu ốm nhách nên kêu là Hai Ốm cho tiện.
          Tôi nói Hai Ốm hay Hườn gì cũng được, cậu sống như vậy là được. Cậu ráng chở tôi đi tìm thằng cháu. Hai Ốm hứa “chú yên chí, cháu rành mấy dụ này quá mà”. Vậy mà tôi đành thất vọng trở về Đà Lạt, thằng Trung lạc trong một biển người của Sài Gòn thử hỏi làm sao tìm ra cho được?
          Mấy tháng sau thằng Trung về khỏi cần tôi phải đi tìm. Nó trốn ra từ một lò may gia công phải làm quần quật ngày mười mấy tiếng đồng hồ một ngày. Khỏi phải nói mẹ nó mừng cỡ nào. Tôi nhìn hai mẹ con cô Thu ngày hội ngộ mà trong bụng thì nghĩ chắc mình phải đi Sài Gòn chuyến nữa để báo cho Hai Ốm thằng Trung đã về. Hôm chở tôi ra bến xe Thành Bưởi, Hai cứ nói hoài cái sự “áy náy” trong lòng:
          – Tiếc quá, con không tìm ra thằng cháu cho chú, chú đừng giận thằng Hai này nghe chú!
VAC
21/10/2014

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét