Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

BÀN VỀ “LỜI KINH (2)” THƠ TRẦN MAI NGÂN - Châu Thạch

 



LỜI KINH (2)
 
Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...
 
Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa
 
Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...
 
Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu
 
Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt phai...
 
Trần Mai Ngân
23-9-2018
 
Bàn về “Lời Kinh 2”: Châu Thạch
 
Bài thơ có đầu đề là “Lời kinh” mà nó chẳng tả gì vê lời kinh. Vậy thì “Lời Kinh” là lời kinh chổ nào?. Một người như nhà thơ Trần Mai Ngân mà dám viết lời kinh thì có kiêu ngạo quá chăng? Muốn biết có kiêu ngạo hay không ta phải tìm hiểu bài thơ thì mới có kết luận.
Đọc câu thơ đầu tiên tôi hoảng hốt: “Trú trong kinh Bát Nhã”. Kinh Bát Nhã là gì?
“Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một bộ kinh rất ngắn của Đại Thừa Phật giáo, có ý nghĩa rất thâm sâu, rất cơ bản, nhằm phá thói quen chấp thật rất nặng nề của chúng sinh. Kinh này được các chùa tụng niệm rất thường xuyên, các thầy cúng đám ma, ngay cả ở nông thôn miền nam Việt Nam cũng tụng kinh này. Có thể nói kinh này rất quen thuộc với Phật tử, nhưng mọi người có hiểu rõ ràng tường tận ý nghĩa của nó không, thì không dám chắc.” “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là quyển Tâm Kinh nhằm phá chấp thật để hiển hiện trí bát nhã của bờ bên kia (ba la mật) tức là bến bờ giác ngộ.”
Kinh Bát Nhã là thế nhưng nhà thơ Trần Mai Ngân dã trú trong kinh Bát nhã. Vậy ai muốn ném đá nhà thơ cũng dễ vì có thể cho rằng tác giả đã cao ngạo, tự cho mình như một tu sĩ thượng thừa mới trú được trong kinh Bát Nhã. Trú tức là ở, có nghĩa là lấy kinh Bát Nhã làm ngôi nhà cho linh hồn mình tá túc. Thế nhưng đọc hết bài thơ “Lời Kinh 2” ta mới hiểu rằng nhà thơ muốn trú mà trú không được, bởi vì hết cả bài thơ là nỗi dằn vặt của tâm tư, là niềm thương nhớ của thứ tình yêu trần thế.
Đức Phật Thích ca nói răng “Ta là Phật và các ngươi cũng sẽ là Phật”. Vậy thì không trách Trần Mai Ngân được, vì Thích Ca là người đã trú trong kinh Bát Nhã và đã đến bờ bên kia, còn Trần Mai Ngân hay Phật tử khác thì đang trú trong kinh Bát Nhã nhưng chưa phá chấp được để ngộ, nên chưa biết ngày nào mới qua được cái bến mê để đến bờ chấn lý.
Trần Mai Ngân đã trú trong kinh bát nhã để cho tâm hồn bình tịnh mà mơ một giấc mơ quá khứ quay về:
Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...
Mặc dầu trú trong kinh bát nhã nhưng tâm hồn nhà thơ chưa hề bình tịnh bao giờ, bởi trong tâm hồn ấy mùa xuân thì mưa, mùa đông thì cây sầu đông trổ muộn, khiến cho nhà thơ cứ mãi thương nhớ đợi chờ:
Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa
Trú trong kinh bát nhã nhưng Trần Mai Ngân lại tu còn đường tình, nhà thơ không ngộ ra chân lý của đạo nhưng lại ngộ ra chân lý của tình là huyễn mộng như hồi chuông tan trong hư không:
Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...
Từ trong kinh bát nhã Trần Mai Ngân thốt ra tiếng rên của con tim rướm máu, nhà thơ kêu gọi người tri kỷ, hay đúng hơn khẩn thiết gọi người tình xưa quay về để con tim vô vọng của mình còn nơi nương náu:
Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu
Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt phai...
Vì sao nhà thơ đặt tên đầu đề bài thơ của mình là Lời Kinh? Trong Phật gíao, kinh dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của đức Phật. Trong Thiên Chúa giáo, Kinh là lời của Đức Chúa Trời khải thị cho con người viết. Vậy thì Trần Mai Ngân cho bài thơ mình là Lời Kinh có cao ngạo không? Trả lời là không. Vì sao là không? Bởi vỉ nhà thơ đã trú trong kinh Bát Nhã, và những lời thơ là vọng âm của tâm hồn nàng từ trong kinh Bát Nhã mà ra. Có thể nói rằng nhà thơ đã đọc kinh Bát Nhã nhưng thay vì lời kinh đưa linh hồn đến cõi bình an thì ngược lại, lời kinh đã hòa nhập với lời tình. Linh hồn nhà thơ trú trong kinh bát nhã nhưng chưa thoát cõi tình trường, khiến cho lời kinh và lời tình nên một!
Cái hay của bài thơ là ở đó, cái thấm thía của bài thơ là ở đó. Ta đọc bài thơ khác chi ta nhìn một ni cô giai nhân tuyệt sắc thất tình nên đi tu. Lòng ta sẽ cảm thấy vừa kính vừa trọng vừa quý mến vừa thương mà vừa ngưỡng mộ cái sắc đẹp trời cho ni cô ấy.
Thưởng thức bài thơ “Lời Kinh” của Trần Mai Ngân ta phải vận dụng niềm hoan lạc của một tu sĩ, tâm hồn lãng mạn của một thi nhân cùng với nỗi đau thất tình thì mỗi câu thơ, mỗi ý thơ sẽ thấm thấu vào tâm hồn ta, làm trái tim ta rung động những cảm xúc khó mà diễn đạt thành lời.
Đọc thơ là như vậy, không phải biện luận bằng “Tam Đoạn Luận” mà hiểu thơ, mà phải hiểu bằng mắt ta, bằng tai ta, bằng tâm ta, bằng tất cả giác quan của ta, thêm cả giác quan thứ sáu và bằng linh cảm trong ta nữa.
Nhà thơ Tràn Mai Ngân đã trú trong lời kinh Bát Nhã để khóc bằng lời tình. Tiéng thơ như tiếng chuông vọng vào nỗi đau chia lìa ly biêt, như tiếng khỏ mõ của một bàn tay nữ tu nào đó trong dòng nước mắt dưới bệ thờ nơi chánh điện./.
CT

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét