Kể từ năm 1919, ở Việt Nam đã có những nghiên cứu khoa học về Nghệ
thuật và nghệ nhân vùng Kinh thành Huế do những người Pháp yêu mến Huế
thực hiện.
Ra đời từ năm 1913, Hội “Những người bạn Cố đô Huế” (A.A.V.H) và tập san Những người bạn Cố đô Huế
(B.A.V.H) do Linh mục Léopold Cadière làm chủ bút với tinh thần “Sưu
tầm bảo tồn và truyền đạt những dấu tích xưa về chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật và văn học châu Âu cũng như bản xứ, liên quan đến Huế và phụ
cận”.
Tập san là diễn đàn học thuật để những nhà nghiên cứu Pháp – Việt
công bố kết quả nghiên cứu công phu, có giá trị cao về các khía cạnh nổi
bật của vùng đất Huế – trái tim của mảnh đất miền Trung, nhất là về
lịch sử, văn hóa và nghệ thuật.
Là một ấn phẩm đặc biệt của B.A.V.H (Số 1/1919), Nghệ thuật và nghệ nhân vùng Kinh thành Huế
(L’Art à Hué) sau đó được in lại trở thành một tác phẩm độc lập với 398
trang trong đó có 176 trang viết cùng 222 trang phụ bản được thể hiện
sinh động, độc đáo với nhiều hình vẽ và hình ảnh minh họa cả đen lẫn
trắng.
Bộ sách tuy chỉ đề tên hai tác giả L. Cadière và E. Gras nhưng rõ
ràng, xuyên suốt nội dung và phục lục sách đã cho thấy rõ đây thực sự là
một công trình tập thể, được tổ chức thực hiện và điều hành dưới sự chủ
biên của giả L. Cadière bởi tập san của Hội Đô thành Hiếu cổ hay trong
số chuyên đề về nghệ thuật ở Huế nói riêng luôn có sự tham gia của nhiều
tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật đương thời như họa sĩ Lê Văn Miến,
Tôn Thất Sa, Lê Văn Tùng, Trần Văn Phềnh, Nguyễn Văn Nhơn/ Nguyễn Khắc
Nhân…
Bố cục của ấn phẩm được cấu thành từ nhiều phần, mở đầu bằng một
chương tổng quát trình bày về nghệ thuật ở Huế của L. Cadière, những
phần còn lại viết về thành phố, nhà cửa, đồ đạc trang trí nội thất Huế
của E. Gras. Sau những nhận định tổng quát về nghệ thuật Huế, L. Cadière
bắt đầu tiếp cận chi tiết với từng phần cụ thể liên quan đến nghệ thuật
tạo hình.
Đó có thể là những mô típ trang trí hình học, những thư pháp viết
bằng chữ Hán được dùng trang trí, đề tài tĩnh vật, thực vật, động vật và
phong cảnh… để cho độc giả có cái nhìn bao quát về tất cả những giá trị
của kiến trúc Huế, từ những chi tiết nhỏ nhất đến sự sắp xếp của kiến
trúc trong bức tranh cảnh quan rộng lớn của đất Thần Kinh. Phân tích
từng ý nghĩa cụ thể của trang trí trong hệ thống những quan điểm của
người Việt về cái đẹp, giá trị tâm linh và ý nghĩa biểu tượng của nó
trong đời sống tinh thần người dân thời kỳ ấy.
Những tạo hình trang trí được minh họa trong sách. |
Nhưng giá trị của cuốn sách không chỉ có như vậy. Nghệ thuật và nghệ
nhân vùng Kinh thành Huế vừa ghi chép, sao chụp lại những chi tiết của
nghệ thuật trang trí của vùng Kinh thành Huế vừa giới thiệu quá trình,
tư duy của những nghệ nhân, những người trực tiếp tạo lên sản phẩm, đặt
nó vào trong hoàn cảnh lịch sử, thời đại và bối cảnh Việt Nam để đưa ra
những nhận xét khách quan, khoa học, có hệ thống, khai mở những vấn đề
mỹ thuật Huế dưới góc độ một công trình khoa học về nghệ thuật tạo hình.
Có nhận định cho rằng “người An Nam chưa từng ấp ủ những hoài bão lớn
lao; những cung điện nguy nga, những đền đài đồ sộ chưa từng xuất hiện
trong dự phóng người xứ này…họ chăm chút tô điểm cho những ngôi chùa nhỏ
nhắn, những ngôi nhà thấp bé và thiếu sáng”.
Từ đó, nhóm tác giả đã trực tiếp nghiên cứu đến những chi tiết nhỏ bé
đầy tính nghệ thuật, những nội thất, cột trụ cột được bào nhẵn thật
công phu, sơn son thiếp vàng; những vách ngăn, cửa ra vào, xà nhà, tủ
bàn và những đường cong nét lượn tinh tế điểm xuyết lá cành thanh thoát
hay chạm lộng thật tỉ mỉ… được những người nghệ nhân khai thác để đạt
được những hiệu ứng mỹ thuật trang trí tốt nhất.
Ngoài những lời khen ngợi, tác giả cũng cho rằng “người An Nam đã bỏ
qua, bỏ quên tất cả những gì đòi hỏi sức mạnh tài năng, sáng tạo” khi so
sánh với những nghệ sĩ Trung Hoa và Nhật Bản. Ngay từ 100 năm trước,
với việc áp dụng những tư duy phân tích của phương Tây vào trong thực tế
Việt Nam, L. Cadière đã thẳng thắn chỉ ra “một dân tộc nghèo thì tương
ứng một nền nghệ thuật nghèo. Về mặt nghệ thuật, người An Nam chỉ thực
hiện những cái không đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều công sức. Nghệ nhân
An Nam không để tâm đến những món mà có thể những người giàu có nhất
cũng khó mở hầu bao ra theo đúng giá trị sản phẩm”.
Linh mục Léopold Cadière. |
Hoặc chính những sản phẩm nghệ thuật của người nghệ nhân lúc ấy đã
bộc lộ ra rất nhiều bất cập vì đã “tự mình tự nguyện khép lại cuốn sách
tự nhiên vô cùng của muôn loài, không tự vùi mình vào nghiên cứu thiên
nhiên, từ đó tự làm cạn kiệt đi nguồn cảm hứng phong phú vô tận và rồi
tự giam mình trong một chuỗi chủ đề truyền thống khá hạn chế”. Rõ ràng,
chính những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến cho những sản
phẩm của nghệ nhân Việt Nam trở lên tụt hậu so với những quốc gia Á Đông
khác.
Một điểm mới lạ trong những cuốn sách đương thời, L.Cadière đã thực
hiện một lối phân tích dựa trên việc nắm bắt và tôn trọng tâm lý của
người Việt Nam thay vì dựa hoàn toàn vào cách áp đặt tư duy của người
phương tây trên nghệ thuật trang trí Á Đông. Những nhận xét của ông và
cộng sự không xuất phát từ sự ác ý, xem thường hay lặng mạ dân tộc trên
quốc gia mình cai trị mà xuất phát từ chính sự yêu mến và cảm phục sự
tinh tế trong trang trí kiến trúc Huế.
Ông khen sự mảnh dẻ, xinh xắn, ít tốn kém, dễ bảo trì sửa chữa trong
nghệ thuật tạo hình trang trí nhưng lại chê sự nghèo nàn của đề tài, sự
gò bó trong việc giải phóng những ý nhiệm và thực hành trong sáng tạo
của người Việt với thái độ cảm thông và yêu mến với phong tục, tâm linh,
bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nguồn Zing.vn
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét