Năm sinh: 1942
Quê quán: Yên Khánh – Ninh Bình
Trú quán: Thị trấn Tân Châu – Tây Ninh
Hội viên hội Văn Học Nghệ Thuật Tây Ninh
Tác phẩm đã xuất bản:
HƯƠNG HOA MỘC – Tập thơ
THAO THỨC SÔNG QUÊ – Tập truyện ngắn
ĐẤT THIÊNG – Tập truyện ngắn
SÔNG NGUỒN – Tập truyện ngắn
Mới đây nhà văn Vũ Thiện Khái đã ưu ái danh riêng cho datdung.com tập
truyện ngắn "PHỐ NINH CỐ SỰ" MÀ NHÀ VĂN DỰ KIẾN SẼ XUẤT BẢN TRONG THỜI
GIAN TỚI. Đất Đứng trân trọng giới thiệu từng truyện ngắn trong tập này
đến bạn đọc.Tập truyện ngắn này tác giả giữ bản quyền.
HUN HÚT GIÓ KHE ĐON
Truyện ngắn Vũ Thiện Khái
Thuở tạo thiên lập địa, có hai ngọn núi
trôi dạt suýt đâm sầm vào nhau. Nhưng rồi chả biết tại sao cả hai kịp
dừng lại ở chỗ này. Giữa hai đầu núi để hở ra một khoảng trống rộng
chừng vài trăm mét. Đồng bào Khmer đặt cho cái tên: Khe Đon. Người Việt
mình hiểu nôm na là khe gió. Gió Khe Đon bốn mùa ròng rã thổi một chiều.
Suốt mấy tháng nắng khô, những bụi cây hoang dại lúp xúp hai bên con
đường men theo chân núi, nhuộm thẫm một màu bụi đỏ. Chuyển sang mùa
mưa, gió Khe Đon mang theo khí đá cóng buốt phả ra từ lòng núi, đêm càng
khuya càng lạnh tê, lạnh tái.
Mấy năm cuối thập niên bẩy mươi của thế
kỷ trước, tôi còn là thằng nhóc học trò cuối cấp một. Sáng nghêu ngao
đến lớp, chiều theo má đào mủ chai trong rừng. Dăm ngày gom được khi dăm
chục kí, khi vài mươi ký. Mủ chai bán cho vựa Khe Đon so với thương
lái thu gom tại nhà cao hơn một giá. Số tiền chênh lệch ấy mua dược dăm
kí gạo, cũng đủ cho cả gia dình tôi no bụng được mấy ngày. Bữa nào gặp
mấy ông kiểm lâm, phải nộp thuế cửa rừng thì chẳng còn được mấy đồng.
Đoạn đường từ nhà tôi đến Khe Đon dài chừng mươi cây số. Má tôi bảo ba
tôi: Ông chở dùm bao mủ, đạp cái vèo, sức ông mấy chục kí nhằm nhò gì,
tránh kiểm lâm dễ ợt. Ba tôi ngồi thừ người, chùng giọng: Bà biết tính
tôi nóng như lửa, nhỡ đụng thằng vòi vĩnh ăn bẩn, đá nó một phát thì tai
họa khôn lường, mẹ con bà chịu khó ì ạch cho yên ổn. Nhớ tới nguồn cơn
vài năm trước, cả nhà tôi phải phiêu dạt đến vùng kinh tế mới này, mẹ
tôi thở dài: Ông nghĩ phải.
Vậy là, chờ đêm nào không trăng, hai má
con tôi lặng lẽ xuất phát. Má tôi cầm tay lái, tôi bám vào bao mủ cột
sau yên, cúi lưng đẩy chiếc xe đạp cà khổ trên con đường tối om lồi lõm ổ
gà. Nhiều bận gặp mưa lớn, hai má con tay vuốt nước mưa, tay đánh vật
với giông gió, chiếc xe thồ đổ lên đổ xuống. Không ít lần bị hư xe nửa
đường. Má tôi hạ bao mủ giấu vào bụi cây ven đường, tôi ngồi núp vào
trong đấy. Bà dắt xe lần mò tìm chỗ sửa. Khi quay lại, tôi đã ôm bao mủ
ngủ ngồi tự lúc nào, người lạnh toát. Bà lẳng lặng ủ tôi vào lòng, xót
xa truyền cho tôi chút hơi ấm từ tấm thân bà cũng đang run cầm cập sau
làn áo mỏng. Biết tôi tỉnh ngủ rồi, bà vẫn để tôi nằm gọn trong lòng, âu
yếm vỗ nhẹ bàn tay lạnh ngắt vào mấy đốt xương sống nhô lên sau lưng
tôi, thủ thỉ: Con đường đời của mỗi người chẳng khác con đường đất mấp
mô này. Đi ngang đoạn Khe Đon tối tăm hun hút gió thì chịu nếm mùi giá
buốt. Đi quá chút nữa thì trời đất ấm áp hiền hòa. Sông có khúc, người
có lúc. Đừng bao giờ thối chí nản lòng con ạ.
Quê tôi xa tít tận miền Tây Sơn, Bình
Định. Ở đấy nhiều núi cao, rừng rậm, khác với ở đây cô độc một ngọn núi
Bà. Thuở tôi còn bé tẹo, chiến sự xẩy ra mỗi ngày, ba tôi bị bắt đi quân
dịch. Mặc áo lính chưa đầy một năm, ông thành phế binh, được giải ngũ
với một ống chân gẫy nát khúc giữa, đi lại không phải mang đôi nạng gỗ,
nhưng tập tễnh bước cao bước thấp. Nhờ ơn trời, ông còn giữ được tấm
thân tráng kiện, vồng ngực nở nang, hai bắp tay cuồn cuộn dư sức ra đồng
lam lũ cày bừa, dư sức kiên trì dạy tôi những thế võ gia truyền. Mỗi
đêm trăng sáng, bóng hai cha con lấp loáng đổ xuống mặt sân, thoăn thoắt
chân đá song phi, tay thoi tả hữu nhanh như chớp. Sau này, chỉ một lần
duy nhất trong đời, tôi suýt sử dụng mấy ngón đòn thâm hậu ấy kết liễu
mạng sống một kẻ bất nhân. Ơn trời, tôi đã kịp dừng tay. Tôi được thừa
hưởng từ ba tôi vóc dáng cân đối, cao lớn, mái tóc xoăn tít và khuôn mặt
góc cạnh đặc trưng khí chất vùng đất võ Tây Sơn. Nhìn bề ngoài má tôi
mười phần thon thả yểu điệu thục nữ, nhưng bên trong, tính cách mười
phần cứng cỏi, kết tinh trọn ven nết đất con gái Bình Định cầm roi đi quyền.
Em gái tôi giống má từ mái tóc dài, đôi môi tươi thắm, nước da trắng
nõn mịn màng, bản tính nhu mìđa cảm, dễ mủi lòng y hệt ba tôi. Chưa đầy
ba tuổi, thấy con chim non đỏ hỏn bị rơi từ ngọn cau cao, nó ôm chân má,
đỏ hoe mắt khóc .
Cái nguyên cớ thúc đẩy ba tôi nửa đêm
đùng đùng dắt díu vợ con lên tầu chạy trốn vào Nam, bây giờ nghe buồn
cười, lãng nhách. Nhưng, đấy là năm 1976. Nhận thức thời thế của sốít
người làng tôi còn lo sợ, hoang mang. Ba tôi chỉ là anh phế binh quèn
chế độ cũ, cũng thần hồn nát thần tính, vu vơ mặc cảm nặng nề, dù chưa
hề bị chính quyền mới đối xử mảy may khó dễ. Bởi vậy, trong một bữa nhậu
nhẹt, chả biết cãi cọ gì, ông đá thằng cháu ông ấp trưởng, mạnh đến nỗi
hắn phải khiêng cấp tốc lên nằm bệnh viện. Người ta đồn thằng ấy bị gẫy
tay lòi xương trắng hếu. Ông công an ấp chỉ mặt ba tôi: Đã ngụy quân,
ngụy quyền còn ngang bướng phá rối trật tự trị an. Phen này rũ tù con ạ.
Chỉ một câu đe nẹt vô căn cứ vậy, ba tôi đã sợ xanh mặt. Ngay đêm ấy,
ông cuống cuồng tính nước chuồn là thượng sách. Mấy tháng sau, bí mật
liên lạc với cô tôi ở quê, ông biết tin cái thằng ấy có gẫy tay gẫy cẳng
gì đâu. Cũng chẳng có ông cán bộ nào nhắc nhở truy cứu gì. Ba tôi bàn
với má tôi thu xếp về quê. Má tôi tính, ởđây đất rộng lại phì nhiêu, sức
đến đâu khai hoang đến đấy, trồng cấy cây gì cũng bội thu. Cứ đà này,
nhà mình chịu khó làm ăn, chả mấy chốc có của ăn của để dành. Mấy năm
nữa hồi hương cũng chưa muộn. Ba tôi nghe theo.
Nhờ ông bạn phế binh của ba tôi đã ở đây
tự ngày đầu thành lập vùng kinh tế mới này đứng ra bảo lãnh, gia đình
tôi được chấp thuận tạm trú dài hạn. Chỗ ấy nằm sâu tít trong rừng. Nhà
cửa còn tuềnh toàng mái tranh vách đất, căn nọ với căn kia tăm tắp cách
đều nhau, tăm tắp cùng một hướng quay ra con đường thẳng đuột từ đầu
đến cuối xã. Dân cư lúc đầu hầu hết từ thành phố Hồ Chí Minh chuyển về.
Nhà có lao động khỏe mạnh thì thả sức khai hoang làm rẫy. Nhà toànđàn bà
con gái thì mở quán cò con bán chút mắm, chút muối, cái kim, sợi chỉ.
Nhà không chịu nổi cảnh đời heo hút thì chạy về thành phố, bỏ lại căn
nhà mối leo đến tận nóc mái tranh, bỏ cả cuốc, rựa và thửa vườn lổn nhổn
gò mối nhỏ to chưa động nhát cuốc nào. Gia đình chúng tôi được ông ấp
trưởng cho tiếp thu một trong những chỗ vừa bỏ trống ấy. Chả phải mua
sắm gì, chỉ mất công sửa sang chút ít làđã có một mái ấm che mưa tránh
nắng. Căn nhà bên kia đường đối diện với nhà tôi treo lủng lẳng mấy
miếng khô cá đuối bằng bàn tay. Trên mặt bàn ghép tạm bằng hai tấm ván
bìa, chỏng chơ vài xị rượu. Ngày ấy quán nhậu đơn giản vậy. Vẫn chiều
chiều túc tắc dăm, mười ông cỡ tuổi ba tôi ồn ào tụ tập cụng ly côm cốp.
Có chỗ nương náu rồi, chúng tôi mau chóng
ổn định sinh hoạt theo nề nếp ngoài quê. Ngày ngày anh em tôi cắp sách
tới trường tiểu học mở ngay tại xã. Trời chưa sáng hẳn ba má tôi đã,
người mang cơm đùm, người xách can nước lên rừng chặt le, đào ụ mối khai
hoang. Dần dà chúng tôi có nhiều bạn mới quen ra vào thăm hỏi. Mỗi
chiều, khi mấy thằng nhóc gọi tôi íới, khi mấy ông quần cộc, áo vắt vai
dừng chân trước cửa nhà kêu: Anh Hai, qua quán Bốn Làng sương sương vài
sị. Ba tôi khéo léo chối từ: Anh em cứ tự nhiên vui vẻ. Tôi bị loét bao
tử. Rượu vào, phát bệnh nặng, vợ con ai nuôi. Ôi xào! Mình ngỏm củ tỏi
rồi thì thiếu gì mấy thằng cha hàng xóm nuôi dùm. Sau mỗi hồi đối đáp
xuồng xã vậy, má tôi khẽ khàng cảnh tỉnh: Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Toàn
một lũ cô hồn. Ông chứng nào tật ấy, tụ bạ với họ, má con tôi dông thẳng
về quê cho trắng mắt.
Cái quán Bốn Làng ở phía bên kia đường,
sau này tôi mới biết là do cánh dân chơi nói lóng với nhau. Bốn Làng là
bán L… Tôi té ngửa, ở chỗ heo hút tận cùng này mà cũng len lỏi mấy cái
tệ nạn kinh khiếp vậy sao. Chả nghe bà chủ quán Bốn Làng họ tên gì. Chỉ
biết bà ta ở một mình, nhưng đâu có sống độc thân. Cửa sau căn nhàấy,
thường lén lút ra vào mấy cô non choẹt mắt viền màu xanh lét, môi tô son
đỏ choét, ríu rít má má con con. Má tôi cũng không đoán nổi bà Bốn Làng
chính xác bao nhiêu tuổi. Cũng mắt xanh, môi đỏ, mồm nói, mắt cười lẳng
lơ một duộc. Một lần nghe mấy bà bạn to nhỏ cùng má tôi trên đường ra
rẫy: Con mụ phốp pháp ấy, da thịt đã như miếng thịt đông, lại dán lên
người toàn những đồ sát nách mỏng tang, lồ lộ chỗ khe, chỗ đồi núng nính
khiêu khích vậy, mấy lão cà chớn nhà mình, không coi kỹ có ngày mất
chồng. Cũng từ miệng mấy bà, tôi biết thêm, ông chồng sĩ quan cảnh sát
chế độ cũ của mụ Bốn Làng đang trong diện học tập cải tạo mút mùa Lệ
Thủy. Má tôi góp chuyện: Thằng cha cảnh sát ấy vớ phải mụ ta, khốn nạn
một đời.
Ở cái vùng kinh tế mới thuở ấy, vào những
ngày mưa rào thối đất kéo dài, đến trẻ con như anh em tôi còn cảm thấy
buồn thối ruột. Huống hồ người lớn phải méo mặt lo toan nồi cơm hai bữa.
Quán Bốn Làng trước cửa nhà tôi cũng bị vắng teo lây. Một chiều đã
muộn, bà Bốn Làng buồn tình, vén quần cao quá đầu gối, đội mưa sang nhà
tôi, một tay cầm nón lá khum khum che cái gì trước bụng. Hình như bà ta
cố tình bước chậm cho những sợi mưa xối xả hắt ướt phần trên tấm áo lụa
dính sát vào mấy chỗ thịt da nây nây khiêu khích. Vừa bước qua giọt
gianh đã giả lả: Anh chị Hai đến ởđây đã lâu, chưa sang chào hỏi được
một câu, em thật lòng xin lỗi. Má tôi lịch thiệp: Chúng tôi đến sau,
chưa kịp chào hỏi láng giềng mới là người có lỗi chứạ. Dứt câu chào, đặt
lên bàn một đĩa mồi, một xị rượu, tự rót một ly đầy, hai bàn tay bà ấy
cầm ly nâng ngang mặt: Xin kính anh Hai nửa ly chuộc lỗi. Nói rồi hé đôi
môi đậm son ngậm một bên ly, ngửa cổ nuốt ực. Đoạn xoay xoay nửa miệng
ly dính vết hồng hồng về phía ba tôi: Xin Kính anh. Tôi gườm gườm nhìn
thẳng mặt bà ta rồi ra hồi nhà ngồi nghe mưa rơi. Trong lòng mơ hồ bất
an chẳng biết nguyên cớ gì. Tôi biết bà ấy nhận ra tia mắt trờn trợn của
tôi ném về phía mình. Nhưng vẫn tỉnh bơ buông mấy câu, vồn vã khen hai
anh em tôi xinh đẹp như thiên thần. Lại khen ba má tôi đẹp đôi tốt
phước. Chồng lồng lộng chẳng kém tài tử xi nê Nguyễn Chánh Tín. Vợ kiều
diễm còn hơn Thẩm Thúy Hằng. Giá mà hồi đó anh chị Hai ở Sài Gòn thì sẽ
gặp nhiều cơ hội giầu sang chất ngất tới đẩu đâu. Lúc bà ta ra về rồi,
tôi nghe má tôi chì chiết: Ông mà mắc lưới mụ ta thì biết tay tôi. Ba
tôi hài hước chúm miệng xì một hơi dài: Coi thường tôi vậy sao? Hạng đàn
bà ấy, mướn giặt đồ cho vợ tôi cũng không đáng.
Bốn năm vật lộn kiếm chút vốn liếng để
trở về bản quán, má tôi chẳng kể nắng mưa, lầm lũi vắt kiệt sức lực
trong rừng. Bị muỗi độc chích mỗi ngày. Đến khi phát bệnh thì lá lách đã
xưng tấy. Trong máu chứa toàn ký sinh trùng sốt rét. Khả năng bệnh
viện ngày ấy bó tay. Biết không qua khỏi, nhằm lúc vắng ba tôi, bà ứa
nước mắt cầm tay tôi căn dặn: Bây giờ xin lỗi các con vì không sớm về
quê cũng chẳng ích gì. Ba các con tính bốc đồng, nhẹ dạ cả tin. Năm nay
con mới mười lăm tuổi, nhưng má biết tư chất con tàm tạm tự lập được
rồi. Má dành dụm được ba chục chỉ vàng đựng trong cái lọ chôn dưới chân
cột góc buồng ấy. Nếu ba cha con về quê thì bán đi, mua chiếc máy xới
Công nông, chăm chỉ cày thuê, kéo mướn cũng đủ sống. Còn ở đây thì chớ
nói với ba con. Cái xứ tứ chiếng này lắm kẻ lừa đảo lắm. Mà ba con tính
dễ tin người. Em gái con yếu ớt, nhỏ dại. Thương yêu đùm bọc lấy em. Má
tin tưởng ủy thác cho con đấy.
Má tôi mất rồi, tôi bàn với ba thu xếp về
quê. Ông khóc: Cha con mình ráng đợi ba năm nữa, mang hài cốt má các
con cùng về. Để một mình má con lạnh lẽo nằm giữa ngút ngàn cỏ dại không
người thân thích chăm nom, tội lắm.
Má tôi nói đúng. Ba tôi dễ buồn, dễ bốc
đồng, dễ thối chí. Sau ngày má tôi mất, tinh thần ba tôi suy sụp đến
không ngờ. Tôi quyết định nghỉ học để phụông làm rẫy. Ông chẳng can
ngăn, còn nói buông xuôi: Tùy con, ba chẳng còn cầm nổi con dao, cái
cuốc. Biết sống sao đây. Nói xong, ông ngây ngô ngửa mặt nhìn gìđó trên
nóc nhà, hai ban tay chốc chốc vô cớ run run từng chặp. Đôi lúc ông chớp
chớp hai mắt, xòe năm ngón tay chai sần khua khua trước mặt coi bộ kỳ
kỳ, lạ lạ. Tôi hỏi: Làm gì vậy ba? Ông cười buồn: Mấy con ruồi bay vung
vít trước mắt khó chịu quá. Tôi nghi mắt ông bị phát bệnh rồi.
Má mất, ba sớm đổ bệnh già. Đã đến lúc
tôi phải giã từ tuổi thơ, gồng lên nhận lãnh bổn phận nuôi sống gia
dình mình. Đang lúc em tôi được nghỉ ba tháng hè. Tôi dặn em ở nhà cơm
nước chăm sóc ba, rồi theo mấy ông thợ sơn tràng vào rừng đốt than.
Tháng đầu công việc thông đồng bén giọt, tôi kiếm được số tiền kha khá,
đủ cho ba cha con chi dùng mấy tháng. Lần đầu về thăm nhà, bước qua hai
cánh cổng ghép bằng những thân cây le, bắt gặp ba tôi đang ngồi một mình
quay mặt ra đường, hai bàn tay lặng lẽ khua khua đàn ruồi vô hình vo ve
trước mặt. Tôi phải ghìm xúc động, thầm nuốt nước mắt. Ông chỉ tay sang
bên kia đường, căn nhà đối diện cửa im ỉmđóng: Quán Bốn Làng bị công an
dẹp rồi. Tôi hỏi em gái, ông bảo: Bà Bốn Làng xin cho nó phụ quán cà
phê ngoài chợ, nó xin phép ba đi làm đã nửa tháng nay rồi. Đoạn đường từ
nhà tôi đến chợ phải luồn qua cánh đồng trồng mía dài hun hút, ban ngày
thường vắng vẻ, nói gì ban đêm. Tôi lo lắng hỏi ba: Sớm hôm, khuya
khoắt một mình nó bé bỏng đi về sao được. Ba tôi trấn an: Ba đi theo bảo
vệ nó mà. Tôi chỉ kịp kêu lên một tiếng: Trời ơi! rồi nhằm hướng chợ
chạy một mạch
Đứng lặng nhìn em đang ngồi gò lưng, nhô
hai chép vai còi cọc trước một chậu nước đen sì đầy ly tách, tôi không
cầm được hai hàng nước mắt. Má tôi mất mới được ít ngày mà anh em mình
đã khốn khổ thế này sao? Những năm trước ba tôi là phế binh, bây giờ ông
thực sự là phế nhân rồi. Em tôi mới mười hai tuổi, bé bỏng, thơ ngây,
phận mồ côi tôi nghiệp quá em ơi… Tôi thì vừa mưới sáu tuổi đầu. Cánh
lông chưa dủ, đã phải phong phanh lăn lộn vào đời. Má bảo đường đời như
con đường đất gập ghềnh vắt qua Khe Đon. Mà gió Khe Đon chỉ thổi một
chiều hun hút, buốt lạnh lắm má ơi. Anh em gặp nhau trong tình cảnh này,
em tôi không dám khóc, chắc nó sợ tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra, má
tôi đã truyền cho nó tính cách cứng cỏi tự xưa của con gái Bình định cầm roi đi quyền.
Tôi chỏ ngón tay về phía bà Bốn Làng phấn
son lòe loẹtđang ngồi gà gật ngoài cửa quán. Em nói nhỏ: Dạo này bà ấy
đói meo rồi. Cả ngày vạ vật ởđây, gạ bói bài nhăng cuội kiếm ăn. Mỗi tối
ba đón em về, bàấy đi theo, bảo nhờ vía anh hai mới có gan vượt qua đám
mía tối nhưđịa ngục. Phố chợ ngã tư trưa ấy, vắng vẻ, quán sá lèo tèo.
Vài bà chủ tiệm tạp hóa nghèo nàn ngồi ngáp vặt. Duy nhất một tiệm sạc
bình ắc quy đang lạch phạch máy nổ khuấy động không gian ngáingủ. Ông
xạc bình mình mẩy trần trùng trục nhớp nhúa mồ hôi từ bên kia đường lẳng
lớt vẫy tay: Hế lô em yêu. Bà Bốn Làng choàng tỉnh, áp mu bàn tay mum
múp thịt vào đôi môi đỏ mọng hôn cái chụt đáp lời.
Ba tôi thông báo: Ba bán hai mẫu rẫy rồi.
Được bốn chỉ vàng. Tôi bảo: Ba yếu rồi, bán đi cũng phải. Số vàng ấy có
nước mắt của má con trong ấy đấy. Ba cất kỹ để làm lộ phí mấy năm nữa
rước má về quê. Ăn uống mỗi ngày con đủ sức lo. Cả phí tổn học hành của
em nữa. Ba giữ nó ở nhà, đừng để tí tuổi đầu đã phải đi làm mướn tôi
thân em lắm. Sáng sớm ngày mai tôi lại lẳng lặng lên rừng.
Nửa tháng sau nhận được hung tin em gái
tôi bị tạt a xít giữa đêm. Thủ ác là một thằng oắt con làm công cho tiệm
sạc bình ngoài chợ. Nó khai mụ vợ lão sạc bình sai nó rình tạt vào mặt
mụ Bốn Làng. Câu chuyện mụ Bốn Làng dan díu với lão sạc bình tôi đã nghe
đồn từ lâu. Nắm được mỗi đêm từ chợ về nhà, mụ ta phải đi qua đoạn
ruộng mía um tùm vắng vẻ. Nó phục kích ra tay chỗ ấy. Nhưng mụ chỉ bị
qua loa mấy giọt, còn em gái vô tội của tôi lại bị hứng trọn một ca a
xít vào mặt, vảo nửa người phía trước. Tôi tìm đến bệnh viện Chợ Rẫy.
Chứng kiến cảnh tượng em tôi nằm bất động, toàn thân băng bó trắng
toát, cả khuôn mặt cũng kín mít, không chừa chỗ nào. Giường mụ Bốn Làng
nằm cạnh giường bệnh em tôi. Mụ vẫn phây phây, môi dưới xưng phều tím
ngắt như cục máu trâu chết. Không tìm được lời nào diễn tả nổi nỗi lòng
quặn thắt đớn đau lẫn sục sôi căm giận của tôi dành cho cái con mụ đáng
chết băm chết vằm ấy. Tôi gầm lên: Đồ ác quỷ, Vì mày mà em tao bị thế
này. Tao giết chết mày. Nếu ba tôi không kịp thời khóa cứng tứ chi tôi,
thì hai bàn tay tôi đã gồng lên như hai gọng thép dập nát đầu mụ ta rồi.
Số tiền chủ tiệm sạc bình đền bồi khắc
phục hậu quả chả thấm tháp gì so với chi phí chữa trị cho em tôi. Tôi
bảo ba đem mấy chỉ vàng bán rẫy cứu em gái. Ông khóc: Ba dại dột cho mụ
Bốn Làng vay để kiếm tiền lời rồi. Vậy là ba tôi bị lừa, mất trắng rồi.
Ba mươi chỉ vàng của má tôi để lại, lần lượt bán đi hết sạch. Nằm viện
ròng rã tám tháng trời, em tôi ra viện với thân hình teo tóp. Khuôn mặt
em vốn tươi tắn vậy, nay nhăn nhúm chỗ đen chỗ đỏ. Một mắt em mù hẳn. Mi
mắt còn lại bị kéo xếch lên, để lộ ra một tròng đồng tử lờ lờ mầu khói.
Em bảo chỉ nhìn thấy mờ mờ. Tôi ở nhà chăm sóc em tới lúc em tựđi lại
được, tự làm được cho mình những công việc sinh hoạt cá nhân, mới dằn
lòng cắn răng tính nước dài ngày theo toán thợ rừng. Chả lẽ ở nhà chờ
chết.
Em tôi bị nạn vào đúng thời điểm cả nước
ta đang trong tình trạng bị bao vây cấm vận. Nhà nhà khó khăn vật lộn
mưu sinh, hàng hóa thiết thân, thứ gì cũng khan hiếm. Nạn buôn lậu từ
biên giới tràn vào mọi ngõ ngách gần như không kiểm soát nổi. Xăng dầu
quý như vàng. Đến nỗi những chuyến xe chở khách phải chạy bằng than, lúc
lúc thải từng chùm xỉ cháy đỏ rụng xuống mặt đường. Xe nào cũng đầy
nhóc người trong khoang, đầy nhóc người bám hai bên, cảnh sát giao thông
có tuần tra kiểm soát, nhưng cũng bó tay. Ngày ngày, những chuyến xe
may rủiấy cứ lặc lè nghiêng ngả leo qua những ổ gàổ voi, phì phòâm ạch
bò từng mét đường, chậm chạp như bước trâu già lặc lè kéo nặng, khiến
hành khách nhiều phen hú vía. Em gái tôi đã bị tử nạn bởi một trong
những chiếc xe than cổ lỗấy. Nó chả đụng vật gì, nó hết hơi, tắt thở, tự
đổ vật xuống mặt đường, cả khối sắt thép rệu rã ấy đè nát em tôi. Tôi hớt
hải chạy về, còn kịp nhìn thấy em tôi duỗi thẳng chân tay, nằm như say
ngủ. Những nếp da hôm nào co kéo dúm dó, giờ phẳng phiu giãn ra thanh
thản đến lạ thường. Có cảm giác em đang hân hoan trên đường tìm về với
má.
Tôi như hóa đá. Chả thèm để ý đến mụ Bốn
Làng lăng săng sắp đặt những công việc tang ma. Cũng chẳng buồn cải
chính lời ông chủ xe thở than xót thương em, xót sa kể lể má con em trên
mỗi chuyến xe lén lút giấu diếm chiếc bị đựng hàng buôn lậu. Tôi biết
ông lầm tưởng mụ Bốn Làng mang cặp môi xưng vều là má của em tôi. Ông
đâu biết mụ ta lợi dụng thân xác tàn tạ của em tôi làm bình phong cho
mưu tính thu lợi bất nhân của mụ. Mấy cây thuốc lá, vài cặp vải quần
tây, mấy anh công an, anh quản lý thị trường nỡ nào không động lòng trắc
ẩn trước một đứa trẻ xác sơ rách rưới, toàn thân nhằng nhịt những vết
sẹo đau đớn chưa lành.
Sau tuần chay thứ nhất, vợ chồng ông chủ
xe than mang lễ vật xin phép ra cúng mộ em tôi, ông bảo: Tiện thể coi
ngôi mộ em tôi xây cất xong chưa. Tôi bảo: Chúng tôi chưa có tiền xây
mộ. Đành chôn sâu đắp chặt thôi. Ông ngạc nhiên: Chúng tôi đã đưa đủ số
tiền chi phí ma chay và chi phí xây mộ cho má cậu ngay trong đêm đưa đám
cháu mà. Tôi nhìn sang bên kia đường. Căn nhà mụ Bốn Làng trống trơ cửa
nẻo, vắng tanh bóng người. Con mụ bất nhân ấy đã lừa ông chủ xe ẵm
trọn số tiền xương máu trốn biệt rồi. Tôi hộc lên một tiếng gầm: Ông thì
róc da tuốt xương mày. Tôi chạy như bay ra bến xe đầu xã, mang theo
trong lòng ngọn lửa căm hận ngùn ngụt cháy, bỏ ngoài tai mấy tiếng gọi
tha thiết của ba tôi sau lưng: Dừng tay lại con ơi! Quay đầu lại con ơi!
Câu chuyện đau thương của gia đình tôi
xẩy ra cách nay đã gằn bốn chục năm rồi. Sáng ấy, trên chuyến xe đò chầm
chậm chạy qua Khe Đon, bất chợt tôi nhận ra buị cây rậm rạp ven đường,
chỗ hai năm trước má tôi lạnh run cầm cập, xót xa ấp ủ tôi giữa đêm hôm
khuya khoắt. Trưa nay, vẫn chỗ ấy, rạng rỡ như Phật Bà vụt hiện, má tôi
giơ hai tay vẫy gọi. Tôi cuống quýt đập thùng xe xin dừng lại. Vẫn như
hôm nào bà âu yếm ấp ủ tôi, hỏi: Con còn nhớ lời má thủ thỉ cùng con
buổi ấy không. Tôi gạt nước mắt thưa: Nhớ ạ. Vậy thì con hãy nhìn xem.
Tôi mở to đôi mắt đẫm lệ, ngón tay mẹ tôi lóng lánh ánh vàng đang chỉ ra
một vùng bát ngát tận chân trời ngũ sắc. Trước mắt tôi, đoạn đường Khe
Đon lầm bụi từ từ mở ra một ngã ba lung linh hoa cỏ. Và gió Khe Đon đâu
chỉ hun hút thổi một chiều lạnh buốt.
Từ thời khắc ấy, Tôi đã là thằng bé khác. Năm ấy tôi mới mười bẩy tuổi đầu.
4 tháng 2 năm 2018
Vũ Thiện Khái
(Tác giả giữ bản quyền)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét