BỤI HOA TRINH NỮ – Truyện ngắn Vũ Thiện Khái
Mới bốn giờ sáng, bà vợ tôi đã
lịch kịch trong nhà bếp. Đoán chừng bàấy cẩn thận kiểm lại trong chiếc
ba lô con cóc, đã bỏ mấy thứ thuốc men, bộ quần áo dự phòng với tấm
võng, cái mùng màu chàm, hai kỷ vật còn lại từ thời chiến tranh tôi vẫn
bảo quản rất cẩn thận để dùng trong mỗi dịpđi xa. Nghe bước chân lẹp
xẹp, tôi ngồi dậy, làm vệ sinh cá nhân rồi xúc ấm pha trà. Hai chúng tôi
cùng có thói quen ngồi rì rầm trò chuyện, cùng nhâm nhi với nhau vài
tách trà nóng vào mỗi sớm mai yên tĩnh. Tôi kể lịch trình hai ngày cùng
đoàn văn nghệ sĩ tổ chức đi thực tế khu vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát.
Sau một giờ ngồi xuồng máy chạy ngược sông Vàm Cỏ, ghé cột mốc 132 xác
định ranh giới nước ta và nước bạn Căm Pu Chia, cả đoàn sẽ kéo nhau đi
bộ men bờ con suối Đa Ha chảy len lỏi dưới tán rừng Lò Gò, thăm vài chỗ
đóng quân của vài cơ quan Trung Ương Cục thời chống Mỹ. Nghe vậy, vợ tôi
buông một tiếng thở dài: Nghe nói hồi tết Mậu Thân con Huệ hy sinh ở
khu vực suối Đa Ha này đấy. Nửa đêm, một trái bom rơi trúng lán trú
quân, xương thịt gần chục trinh nữ văn công xinh đẹp bay đi sạch sẽ. Bây
giờ chả biết cái hố bom tai ác ấy ở chỗ nào. Không mắc chứng xưng khớp
gối thì tôi đã theo ông nhẩn nha đi dọc con suối ấy. Tin chắc ở đấy mình
sẽ nhận ra một chút gì đó của nó còn phảng phất. Cây cỏ còn có tánh
linh, huống hồ một con người tinh anh tài hoa nhường ấy. Tôi đã gói sẵn
bó nhang trầm xứ bắc, ông cứ đốt lên rải rác cắm vào từng khóm cây, bụi
cỏ dọc đường. May ra linh hồn phiêu bạt của nó nhận được chút tình anh
em ruột thịt, tình quê hương chứa chan trong từng sợi khói, họa may bớt
chút lạnh lùng.
Nhà em Huệ và nhà tôi cách nhau
một cái ao. Anh trai Huệ với tôi cùng lứa tuổi. Chúng tôi đã là sinh
viên năm thứ hai, thì cô Hà, người sau này là vợ tôi và Huệ đang học lớp
mười. Hai người thân thiết với nhau con chí cắn đôi. Những năm ấy máy
bay Mỹ đã bắt đầu leo thang bắn phá ra miền Bắc. Một năm mấy lần tuyển
quân. Trai tráng rần rần kéo nhau đi B. Nhà nào từ hai con trở lên, chưa
có người đóng góp cho tiền tuyến, thì dù nhận được giấy trúng tuyển Đại
học cũng không được địa phương chấp thuận. Gặp dịp nhà trường thông báo
sẽ cấp bằng tốt nghiệp trước cho những học sinh chỉ còn thiếu vài tháng
học trình cuối cấp, nếu có nguyện vọng nhập ngũ. Huệ là người con gái
đầu tiên của làng tôi đăng ký gia nhập thanh niên xung phong hỏa tuyến.
Sau này chúng tôi cưới nhau rồi, vợ tôi mới cho tôi biết lý do em ấy bỏ
học là vì thương thằng Quân, cậu em trai út ít sức vóc trói gà không
nổi, nhà chưa có ai tham gia quân đội, vài năm nữa tới tuổi nghĩa vụ
quân sự, sợ nó không chịu nổi gian lao chiến trận, đảo ngũ thì nhục nhã
cho gia đình.Tôi nghĩ với tính cách em Huệ, xung phong phục vụ chiến
trường đâu phải chỉ một lý do riêng tưấy. Ngày đó, tinh thần chống Mỹ
cao lắm, chả cứ thanh niên mà những người đã có vợ con rồi cũng nôn nao
vác súng lên đường. Cả trường cấp ba của Huệ có năm lớp mười, sau đợt
tuyển quân, còn lại vỏn vẹn hai lớp vơi vơi. Trong lứa học sinh hăng hái
tòng quân đợt ấy, có nhiều cặp đôi lâu nay giấu diếm yêu nhau, bấy giờ
mới công khai cùng nắm tay nhau phới phới lên đường. Thằng Tùng và em
Huệ là một cặp xinh đẹp tươi tắn được nhiều thày cô, bạn bè ngưỡng mộ.
Tôi biết thằng Tùng. Nó ngồi
cùng lớp với tôi từ đầu cấp hai. Nó hơn bọn chúng tôi mỗi cái tướng tá
phương phi, da thịt trắng trẻo hồng hào và mỗi tuần thay đổi mấy bộ đồ
tây láng coóng. Còn sự học thì nó đùn nhất lớp. Thày gọi lên bảng, hỏi
gì cũng đứng đực như ngỗng ỉa, mặt đỏ rần. Năm nay đúp, sang năm đúp,
đúp mãi. Đúp đến độ chúng tôi phải đặt cho nó cái tên Tùng Đùn Đụp. Tôi
đã là sinh viên năm thứ ba, nó còn lẹt đẹ ngồi học chung lớp với em Huệ
và bà vợ tôi bây giờ. Nếu không có cái sựưu tiên đi chiến trường, mười
phần nó không lấy được tấm bằng tốt nghiệp. Có thể nó đần độn học không
vào. Có thể nóỷ vào bố nó, chẳng cần học vấn vẫn xin được biên chế vào
cơ quan nhà nước, thoát cảnh chân lấm tay bùn. Ông bố nó lúc ấy là sĩ
quan trợ lý cho một vị tướng tư lệnh quân khu. Tướng mạo phương phi, cắp
cặp theo sau vị tướng, bộ dạng ông ta còn oai hơn ông tướng. Mười mấy
năm liền, ông ta mấy lần đeo quân hàm đạiúy, tụt xuống trung úy, thêm
sao rồi lại rớt sao soành soạch, chỉ vì mỗi tội con rơi con rớt. Thời
ấy, tội hủ hóa xấu lắm. Chả hiểu sao ông ấy vẫn cứ được đi theo ông
tướng mãi. Ngày ấy trai làng nhiều anh ngấp nghé em Huệ, không thành,
biết chuyện Tùng với Huệ, chưng hửng thất vọng, nói xấu em mê con nhà
giầu, mê đồng hồ poljot Liên Xô. Đến tôi cũng chả hiểu, em nổi tiếng hoa
khôi khắp mấy trường trong tỉnh, hát hay được bạn bè suy tôn em gái ca
sĩ Thương Huyền, lại say đắm cái thằng Tùng Đùn Đụp ấy.
Tôi viết văn, viết báo vào loại
soàng soàng. Tuổi tác già nua, tài mọn, chả hy vọng làm nên tích sự gì.
Lần này đi thực tế với anh em lấy vui là chính. Buổi sáng hênh hênh
nắng. Ngồi xuồng máy chạy ngược giữa dòng sông Vàm Cỏ, đôi bờ trùng
trùng cây rừng xanh om, cao vút. Cúi nhìn sóng nước lăn tăn, lòng sông
trong vắt, dưới đáy hiện lên rực rỡ bầu trời biếc xanh thăm thẳm, mây
trắng lờ đờ trôi, cứ ngờ ngợ xiêm y những nàng tiên cá thướt tha bơi
lội. Cách vài chục sải tay đã là bờ biên nước bạn. Quang cảnh thật thanh
bình yên ả. Vậy mà một thời chưa xa, bao nhiêu bom đạn đã dội xuống nơi
đây. Chẳng thể nào biết được chính xác còn bao nhiêu hài cốt liệt
sĩđang nằm yên nghỉ dưới đáy dòng sông thơ mộng này. Từ cột mốc 132,
chúng tôi đi luồn dưới tán rừng rậm rạp. Theo lối mòn năm xưa những binh
đoàn giải phóng hành quân, cỏ gai giờ đã lấp đầy. Nếu không có vài cây
cầu sắt bắc qua, tôi nghĩ con suối Đa Ha chẳng có gì thay đổi. Dòng nước
trong xanh lững lờ hôm nay, đâu khác dòng nước trinh nguyên hàng vạn
năm trước len lỏi chảy trong bóng tốiâm u huyền bí những tàng cổ thụ
khép tán che khuất mặt trời. Có đoạn uốn éo trườn bên sườn mấy tảng đá
ong nổi lên như tấm lưng voi rong rêu nhơn nhớt. Có đoạn lười biếng mềm
mại phơi mình lồ lộ giữa đôi bờ cỏ hoa kín đáo khoe sắc rung rinh. Tôi
thầm nghĩ từ nguyên thủy con suối nàyđã mang trong mình dạt dào âm tính.
Vậy mà đau đớn thay, thời chiến tranh, nó đã phải đau đớn ôm vào lòng
biết bao xương máu con người. Dưới bước chân chúng tôi hôm nay, hơn bốn
chục năm rồi vẫn còn rải rác những hố bom sâu hoắm. Hố bom nào đã đưa em
Huệ lặn hồn vào cỏ cây, sông suối đại ngàn này.
Thụt lùi xuống cuối đoàn, tay
cầm nắm nhang cháy đỏ, tôi lặng lặng cúi đầu trầm tư, bước đi như kẻ
mộng du. Qua mỗi đoạn ngắn, tôi lại cúi xuống cắm một nén nhang, lâm râm
khấn nguyện: Huệơi, em đang ở chỗ nào. Anh thay mặt con bạn thân con
chí cắn đôi của em, đi tìm dấu vết em đây. Nén hương nào cũng lập lòe
sáng bừng đốm đỏ. Qua vai tôi dường như có ai đó nhẹ nhàng đổ bóng xuống
cỏ gai. Lạ kỳ, ngoảnh lại chỉ thấy những thân dây leo đu đưa, đu đưa,
văng vẳng giữa thinh không mấy tiếng chim gù xa vắng. Ái ngại tôi tuổi
gia sức yếu, chị trưởng đoàn dừng chân bên miệng hố bom ngập nước, vài
bông súng tím sẫm nhô lên đón nắng. Kề bên bờ suối, một căn nhà gỗ, áng
chừng bốt gác của tổ coi rừng. Trước mặt chúng tôi, xuất hiện một bụi
trinh nữ rực rỡ nhiều đóa hoa đỏ thắm lấp ló lẫn trong xoắn xuýt những
cọng thân gai khẳng khiu thanh mảnh. Tôi cảm thấy nắng gió lúc này khang
khác, phiêu phiêu như trên cõi trời nào. Linh tính mách bảo, còn đúng
ba nén nhang, tôi ngồi xuống thận trọng cắm chụm vào mô đất từa tựa
chiếc lư hương. Lạ kỳ cả ba đầu nhang lóe sáng rồi cùng bốc cháy đùng
đùng. Trong mắt tôi, những đốm hoa trinh nữ bỗng nhiên lập lòe phập
phồng những giọt máu tươi ròng. Tai tôi nghe tiếng tôi nói với chị
trưởng đoàn, tưởng tiếng ai tự xa xôi vọng lại: Đây đích thị một loài
trinh nữ chưa ai phát hiện chịạ. Mầu sắc đỏ tươi đẹp đến nao lòng. Chị
trưởng đoàn cúi xuống coi kỹ: Em chỉ thấy màu tím nhạt, trinh nữ vốn màu
ấy mà. Có cái gì như níu kéo tôi ở lại chỗ này. Tôi khẩn khoản xin chị
cho tôi nghỉ lại bốt gác rừng đêm nay. Chị miễn cưỡng đồng ý, sau khi đã
gửi gắm tôi cho anh nhân viên bảo vệ đang phiên túc trực.
Đêm ấy, giữa rừng già, bên bờ
suối Đa Ha, tôi không thôi cảm giác bồn chồn khó tả lúc ban chiều. Đêm
cuối tháng tối đen như mực. Chán trò chuyện không đầu không đuôi với anh
bảo vệ cỡ tuổi cháu trai tôi, lại ra bờ suối bồi hồi ngồi với bụi hoa
trinh nữ lập lòe đốm đỏ. Nửa đêm bỗng nghe mồn một âm thanh vỗ nước rào
rào của nhiều người đang tắm suối đùa dỡn với nhau, lẫn vào nhiều giọng
con gái nói cười lảnh lót. Tôi mở cửa bước ra, dội vào mắt tôi, một vừng
trăng bừng sáng giữa đỉnh trời. Bát ngát những dòng trăng đặc sệt, vàng
óng chảy từ ngọn cây, từ kẽ lá đổ ào ạt vào lòng con suối Đa Ha. Trước
mắt tôi, mặt suối dường như mở ra vô tận. Phía xa, rờn rợn khói sương
chỗ dày, chỗ mỏng bảng lảng u buồn. Thấp thoáng bờ suối bên kia, mấy cô
lính giải phóng dàn hàng ngang đang mềm mại khom khom những tấm lưng
lưng áo xanh ướt sũng. Một dàn lấp lóa những cánh tay trắng muốt vung
vẩy xoay tròn những mớ tóc đen dàióng ánh. Nước từ những đuôi tóc lõa
tõa bắn ra như mưa rào, vảy ướt cả đầu tóc, quần áo tôi. Từ đám trinh nữ
xinh tươi ấy, tỏa vào không gian tràn ngập mùi hương nhu dìu dịu, mùi
bồ kết thơm nồng. Tôi mơ hồ nghe bên tai tiếng ai cười khúc khích: Huệ,
mày cóông anh lặn lôi đến thăm kìa, sướng nhé. Thoáng nghĩ bà vợ tôi đã
linh cảm đúng. Vậy là tôi đã tìm thấy chỗ em Huệ đóng quân rồi. Vui mừng
khôn xiết, tôi quýnh quáng chạy bổ ra bờ suối. Ngay tức khắc, đoàn
trinh nữấy biến thành làn khói bay là là rồi tan hòa vào lòng suối. Bên
bờ thẫm đẫm ánh trăng, chỉ còn lại một mình em Huệ. Mấy chục năm rồi, em
Huệ của vợ chồng tôi vẫn phơi phới tuổi đôi mươi, mười tám, trẻ trung
tươi tắn hoa khôi thời nữ sinh trường huyện. Vẫn đôi môi thanh tú phớt
hồng. Vẫn đôi mắt với đôi đồng tửđen nhóng nháy ấm áp ánh nhìn tinh
nghịch, hồn nhiên, thân thiện thuở nào. Tôi hỏi em: Sao lâu nay không
xin nghỉ phép về thăm nhà. Giọng em chùng xuống: Chưa tới phiên đổi gác,
mà em cũng chả hiểu sao đơn vị lâu nay chẳng truyền đạt mệnh lệnh gì. Ở
vùng biên giới này bỏ gác một giờ cũng không được anh à. Lại hỏi: Có
nhận được tin tức gia đình không? Năm ngoái mẹ em đã đến đây. Còn mang
cho chúng em một bao bồ kết và một bó hương nhu vườn nhà. Em hỏi tin anh
Tùng, mẹ lắc đầu không nói. Em hỏi thăm thằng Quân, mẹ em chỉ khóc. Em
chả biết sự tình ra sao.
Tôi tung mền ngồi dậy. Hình như
trời sắp sáng. Chú gác rừng đã ngồi im lặng bên bàn nước, bàn tay chống
cằm nhìn ra bìa suối tự lúc nào. Chú bảo: Ông nói chuyện với ai lâu
quá, giọng nghe nghen nghẹt. Cháu sợ người giàđêm hôm có bề gì. Tôi xoa
tay lên đầu tóc, lên tấm áo len vừa mặc thêm tối qua, tất cả đều âm ẩm
như vừa đi dưới mưa phùn. Tôi khịt mũi, mùi hương bồ kết, hương nhu còn
thoang thoảng. Chú bảo vệ tinh ý nói ngay: Thỉnh thoảng làn hương thơm
này gió đưa về sực nức đầy nhà. Cháu xục xạo mọi góc rừng quanh đây,
chả thấy cây bồ kết, cây hương nhu nào, lạ lắm. Thế còn thấy gì lạ nữa
không? Đêm qua cháu lại nghe ngoài suối rào rào như có người té nước, có
tiếng con gái khúc khúc khích nói cười. Tháng nào cũng một đôi lần như
vậy. Nhưng chẳng bắt gặp ma quỷ bao giờ. Bác thấy bàn thờ thiêng ngoài
kia không, được điều động về đây, mấy năm trước cháu đã thấy rồi. Để thờ
các vong linh liệt sĩ đấy.
Bây giờ thằng Tùng nghỉ hưu
rồi. Hơn mười năm trước, thỉnh thoảng thấy nó liến thoắng trên ti vi, bà
vợ tôi liền tắt phụt, rồi sẵng giọng: Nghe thằng đáng khinh này lải
nhải mắc ói. Được đọc hết mười mấy lá thư em Huệ gửi cho bà ấy, tôi mới
hiểu ra cái lý do bà khinh bỉ cái thằng Tùng Đùn Đụt kia. Một đoạn trong
lá thư thứ ba của Huệ: Hà ơi! Được đeo lá ngụy trang ra trận cùng
với đoàn quân toàn những thanh niên ưu tú, tao thấy tự hào, sung sướng
vô cùng mày ạ. Niềm hạnh phúc ấy được nhân đôi bởi kề bên vai tao có anh
Tùng. Chúng mày cứ chê tao sao lại đi yêu cái thằng dẻ cùi tốt mã ấy,
tao lẳng lặng chịu đựng. Nhưng mà anh ấy đã đồng hành cùng tao, đồng
hành cùng dân tộc bước vào cuộc chiến đấu vĩ đại này. Chúng mày phải
nhận đã đánh giá sai lầm phẩm chất của anh ấy đi. Tao thấy tao đã lựa
chọn đúng. Mỗi bước chúng tao cùng nâng đỡ nhau trên những nẻo đường
rừng âm u muỗi vắt, leo qua những quèn đá tai mèo, gian khổ đấy mà lòng
tao hân hoan lắm. Biết vì sao không, vì trong tay tao luôn có bàn tay
anh Tùng ấp ủ. Lá thư liền sau đấy: Bọn tao hành quân gần hết
địa phận Quảng Bình thì Tùng nhận được lệnh điều động hỏa tốc đi nhận
nhiệm vụ đặc biệt. Buổi tối chúng tao tạm biệt nhau, nước mắt tao chả
biết lấy gì đong cho hết. Chiến tranh mà, tình riêng chưa bằng con muỗi
phải không? Biết vậy mà sao lòng tao vẫn đớn đau vô hạn. Đêm ấy suýt tí
nữa tao đã trao cho anh ấy cái nghìn vàng. Đắm đuối vậy mà tao còn tỉnh
táo gìn giữ được. Ơn trời. Những lá thư sau Huệ cứ đều đều ấm ức
than phiền không nhận được thư Tùng. Bà vợ tôi bảo cũng ơn trời từ ngày
ấy nó không nhận được tí tin tức gì về cái thằng xấu sa đáng khinh bỉấy.
Chuyện thằng Tùng, tôi biết rành rọt lắm. Ngày ấy bố nó biết, nếu để
thi cử đằng thằng thì con ông ta đạp vỏ chuối. Lợi dụng chủ trương cấp
trước bằng tốt nghiệp cho học sinh xung phong thi hành nghĩa vụ quân sự,
ông ta cho con đi chiến trường lấy lệ, tới gần giới tuyến, làm một lệnh
rút về cho đi học nước ngoài, vừa đúng thủ tục, vừa êm ru, chả ai phê
phán được gì.
Thằng Tùng học khoa khai khoáng
bên Rumani cùng với con gái ông vụ trưởng vụ tổ chức bộ Công nghiệp
nặng. Hai đứa yêu nhau. Hè năm thứ hai chúng về nước tổ chức đám cưới
ngoài Hà Nội. Khi ấy, nơi hỏa tuyến, em Huệ cứ thổn thức nhớ nhung, cứấm
ức không nhận được thư thằng Tùng. Sau ngày Bắc Nam thống nhất, ông vụ
trưởng điều nó về khu mỏ Quảng ninh. Chả biết tài cán nó có được như hồi
phổ thông không, cứ giám đốc mỏ nhỏ rồi mỏ lớn, thăng tiến vù vù.
Mấy ngày sau chuyến đi rừng,
tôi ngơ ngẩn chẳng xác định được mình đã gặp em Huệ bên bờ suối Đa Ha là
thực hay là mộng. Chỉ nghe bà vợ tôi an ủi: Ông còn khôn ngoan đấy.
Không nói cho Huệ nó biết chuyện thằng Tùng. Biết sự thật, linh hồn nó
sẽ tổn thương thêm, u uất thêm, tôi tình thêm ông ạ.
Tiếp bước người chịđi chiến trường vừa
được hai năm, nhận tấm bằng tốt nghiệp phổ thông cất vào trong tủ, thằng
Quân xung phong nhập ngũ. Nó bảo thân trai lúc này mà ngồi giảng đường
đại học không thể yên lòng. Rất may mắn, tới ngày chiến thắng nó trở về
lành lặn, lạiđi học tiếp, ra trường, lấy vợ. Nhưng quái ác thay, hai đứa
con nó bị tật nguyền bởi di chứng chất độc da cam. Vợ nóđã mất cách nay
mấy năm. Bây giờ nó thân hình một dúm da, một nắm xương. Bố tiều tụy
chăm hai đứa con không bao giờ được làm ngưởi lớn. Tôi mấy lần về quê,
vô cùng ái ngại tình cảnh nó. Đã hỏi: Ông anh cảở ngoài Hà Nội giầu lắm,
có giúp đỡ em trai nhiều không. Nó bảo: Lúc bác ấy còn khỏe, vẫn cho
chác đều đều. Mấy năm nay ngồi xe lăn, ăn uống phải thuê người phục vụ.
Chả nhận ra người quen, hỏi gì cũng chỉ lắc lắc đầu. Thương lắm. Thế hai
con ông ấy nghe nói thành đạt lắm, có liên lạc gì không? Đáp: Chúng nó
vọt sang Tây Đức ngay từ lúc bức tường Béc lanh xụp đổ. Bây giờ định cư ở
đấy. Em chả gặp chúng lần nào.
Tình cảnh thằng Quân hiện thời khó khăn
nhiều bề, dẫu rằng tiền trợ cấp của nhà nước ba bố con nó cứ cho là tàm
tạm đủ. Tôi đang nung nấu ý định tổ chức một chuyến đi, đưa thằng Quân
về suối Đa Ha, nơi linh hồn chị nó gần năm chục năm nay còn lẩn quất
giữa cây rừng, sông suối. Nhưng có cách nào để thằng Quân đừng kể lể
chuyện nhà, chuyện xã hội với chị nó. Biết thêm, em Huệ phải nhận thêm
đau đớn của cõi đời này. Ích lợi gì đâu.
Nhưng mà bọn người trần mắt thịt chúng ta
làm sao giấu diếm được mọi sự đời trước những linh hồn từng là những
con người đáng kính, từng mang những tuổi tên cao quý vừa mới đây thôi,
sạch sẽ vụt bay khỏi thế gian này.
30 – 11 – 2017
Trích trong tập truyện ngắn "PHỐ NINH KÝ SỰ" SẮP XUẤT BẢN – TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét