Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường
Phạm Duy – Hồ Huyền Chi
Trưa chủ nhật tuần trước bà
Bình bị một cơn đau bụng quằn quại. Từ khoa cấp cứu, bà được chuyển vào
khoa nội bênh viện Chợ rẫy, rồi lại chuyển sang bệnh viện K. Mới nếm mùi
con bệnh mấy ngày, bà đã thấy từng giây, từng phút trôi đi thật nặng
nề, chậm chạp. Chiều qua nghe thông báo sáng mai được về nhà, bà mừng
như nhặt được vàng, suốt đêm cứ thấp thỏm mong trời mau sáng. Đêm nằm
năm ở, các cụ nói không sai. Thôi, cứ về nghỉ ngơi ở nhà mình cái đã,
còn sống chết phó mặc cho số phận. Ông Giời đã bắt thì chui xuống lỗ nẻ
cũng chẳng thoát. Nghĩ vậy, tự dưng lòng bà nhẹ tênh tênh. Đứa con gái
lớn công tác trên thành phố, năn nỉ bà ở lại nhà nó tĩnh dưỡng ít ngày,
bà không chịu. Nó đành bảo chồng lái xe đưa bà về quê. Gọi là quê, thực
ra chỗ ấy chỉ là nơi mấy chục năm trước ông Bảo, chồng bà, được điều
động về bộ chỉ huy quân sự một tỉnh phía nam, mến miền đất cây cối tốt
tươi, dân tình hiền hòa, ông bàn với bà chuyển hộ khẩu cả nhà vào trong
đấy. Nghe ông điện về, có một trường cấp hai gần doanh trại sẵn sàng
nhận bà vào dạy học. Đắn đo mãi rồi bà cũng thuận theo ý chồng. Tới lúc
hai người nghỉ hưu, ông bà không quay về quê ngoài bắc nữa. Thấm thoắt
đã sắp hết đời người.
Mặt đường cao tốc phẳng lỳ, xe chạy êm
ru, máy điều hòa vặn nút lạnh vừa phải. Bà nhắm mắt thiu thiu chập chờn
được vài tiếng đồng hồ, lúc dựa lưng vào thành ghế sau, lúc dựa vai
chồng. Ông ấy nay đã ngoại bẩy mươi rồi, mái đầu trắng phớ cứ gật lên
gật xuống thật tội nghiệp. Đến lúc cổ họng nôn nao muốn ói, bà định nhờ
ông lấy cho cái túi nylon, thì xe đã từ từ vào giữa sân nhà, rồi dừng
sát bậc thềm. Ông Bảo choàng dậy, ngồi chờ anh con rể nhanh nhảu từ
buồng lái chui ra mở cửa xe, toét miệng cười, giơ tay chào kiểu quân sự:
Hết tiền rồi. Mời hai thủ trưởng xuống xe. Ông ra trước, dìu bà bước
lên mấy bậc thềm. Bà nhỏ nhẹ bên tai ông: Tôi khỏe nhiều rồi. Ông cứ để
tôi tự đi được mà. Đứa con gái út nghe tiếng động, lật đật chạy ra, tay
áo xắn cao qúa khuỷu. Bà Bình thoáng nghĩ, nó đang bận đun nấu gì trong
bếp đãi mẹ đây. Quên khuấy hai bàn tay vừa rửa vội còn ướt rượt, cô
Lành thận trọng đỡ nách mẹ thay cha. Lòng bàn tay cô ấp vào lưng mẹ đụng
phải mấy đốt xương sườn chồi lên sau tấm áo rộng thùng thình, cô suýt
bật khóc. Nhớ lời cha dặn, cô gắng hé môi tạo ra nụ cười nửa miệng: Con
đã bảo mà, đến bệnh viện, bác sĩ cho thuốc, mẹ sẽ khỏi ngay tắp lự, mẹ
cứ không chịu đi. Bà se sẽ nắm tay con: Ừ, ừ, mẹ cám ơn con. Biết vậy đi
sơm sớm cho đỡ khổ.
Bác sĩ hai nơi đều bảo bà bình
thường. Nhìn vào mắt họ, bà biết họ đang cố tình giấu diếm điều gì. Bà
dư biết, chả có ông thày thuốc nào lại nói với bệnh nhân: Ca này bó tay
rồi. Chồng bà, hai đứa con gái bà, cả anh con rể nữa đều phụ họa theo
lời bác sĩ, cười nói cứ như không: Ôi dà, bà chẳng mắc chứng nan y gì,
chỉ là đau chút chút, mệt chút chút do tuổi già vậy thôi. Đã vài năm nay
thường xuyên bấm bụng chịu đựng những cơn đau âm ỉ, bà ngờ khối ung thư
trong buồng ngực mình đã tiến triển đến giai đoạn cuối rồi. Từng là
giáo viên dạy sinh học mấy chục năm, lục phủ ngũ tạng con người ta bà
hiểu rõ ngọn ngành. Nên bà biết thời gian được sống cùng chồng con và
các cháu chẳng còn nhiều nhặn nữa. Thôi thì cứ giả vờ tin lời con cái
cho chúng nó yên lòng. Đến lúc này bà mới thấy tiếc, giá thời trẻ cứ
liều đẻ thêm vài đứa nữa, bây giờ chúng chia nhau gánh vác công việc săn
sóc bà, phụng dưỡng bố già thì đỡ biết nhường nào. Đằng này, sau, trước
cũng chỉ trần chi chi hai đứa, lại đều là phận gái, đã bận việc cơ
quan, lại bấn bíu lo toan đủ việc cửa nhà. Thương con đứt ruột, bà cũng
chỉ biết ém chặt trong lòng. Sinh hai con gái trong giai đoạn đất nước
sắp bước vào cuộc chiến tranh sinh tử, bà đặt đứa đầu tên Yên, đứa sau
tên Lành. Yên lành là mong ước thiết tha của bà, cũng như của bao nhiêu
phụ nữ thế hệ bà thời ấy. Có lẽ ông trời đã thấu tấm lòng bà, nên sau
cơn binh lửa, ông Bảo được yên lành trở về. Bây giờ con Yên công tác
trên thành phố Hồ Chí Minh, năm nay đã gần năm chục tuổi rồi, tuổi ấy
đâu còn khỏe nữa. Vậy mà tuần nào nó cũng se sái vượt đoạn đường hơn
trăm cây số về Tây Ninh với mẹ hai ngày thứ bẩy và chủ nhật. Con Lành ở
chung nhà với vợ chồng bà. Chồng nó còn tại ngũ đóng ngoài hải đảo,
biền biệt năm được về nghỉ phép mươi ngày, năm không, coi như chẳng đỡ
đần được gì cho vợ. Ngày hai buổi đến cơ quan, trưa về nó lại tất bật
cơm nước, lau nhà, giặt giũ, tối đến ngồi xoa lưng đấm chân cho mẹ. Được
bàn tay con xoa bóp, bà thấy đôi phần dễ chịu. Xót con mệt nhọc, muốn
cho nó nghỉ ngơi sớm, bà hẩy tay nó: Mày làm tao đau thêm. Nó cười cười
nhăn nhăn sống mũi, y như hồi đang tuổi mẫu giáo: Nhìn mặt mẹ, con biết
mẹ đỡ đau. Mẹ nói dối. Không lừa được con đâu. Cha bố cô, chỉ được cái
tinh ý như con cáo ấy. Cứ nghĩ đến một ngày sắp tới, mình phải bỏ nó mà
đi mãi, không còn những buổi tối mẹ con âu yếm nhau như thế này nữa, bà
Bình không ngăn nổi hai hàng nước mắt. Bà đã ý tứ quay mặt về phía tối,
không nấc lên thành tiếng, nhưng hai vai cứ rung lên nhè nhẹ. Con gái bà
cũng vờ như không biết, vờ làm bộ ngạc nhiên: Mẹ thấy lạnh hay sao mà
run vậy? Bà Bình quơ tay ôm lưng con. Toàn thân con gái run rẩy trong
vòng tay yếu ớt của bà. Biết nó khóc thầm nhưng bà vẫn vờ hỏi: Con cũng
lạnh sao? Lúc sau nó kìm lòng hỏi nhỏ: Sáng mai mẹ muốn ăn bún bò Huế
không? Cho mẹ cốc sữa được rồi. Mẹ ít vận động, ăn thứ nhẹ cho dễ tiêu.
Bố con dạo này coi bộ gầy ốm quá. Nhớ lo bữa sáng chu đáo cho ông ấy.
Canh riêu nhớ bỏ ít muối thôi, ăn mặn có hại cho tim mạch người già con
ạ.
Ngồi một mình trong bóng tối
ngoài phòng khách, hai bàn tay ông Bảo ôm gon chén trà nghi ngút khói.
Đến lúc nước trong lòng chén lạnh tanh ông cũng chả uống ngụm nào. Ông
nghe thấy hết mọi lời vợ ông và con gái thút thít hằng đêm. Người lính
gan góc một thời, từng vào sống ra chết, chẳng nhớ hết đã tham gia bao
nhiêu trận đánh, bây giờ cam chịu chùng xuống, giấu vợ, giấu con, tối
tối âm thầm ứa hai dòng lệ. Nhiều đêm dài, lúc thức cũng như lúc ngủ,
bao chuyện xưa kia cứ vu vơ vô thức hiện về. Ngày ấy, sắp kết thúc khóa
sĩ quan lục quân, nhà trường cho học viên nghỉ mấy ngày. Ông tranh thủ
tạt qua nhà. Giữa trưa nắng như đổ lửa, ông khoác ba lô về tới cổng thì
gặp con Yên chưa đầy bẩy tuổi, mặt mũi đỏ xầy đỏ xuộc, áo hở rốn, hai
bàn tay bé bỏng giơ cao giữ rổ rau lang đội trên đầu, hai bàn chân trần
lũn tũn những bước ngắn trên mặt đường cát bỏng. Ông vội chạy đến, ngồi
thụp xuống, một tay nhấc rổ rau lồng phồng ngọn dài, ngọn ngắn nghều
ngoào, một tay ôm con vào lòng. Ông muốn lấy bóng mình che nắng cho con,
nhưng đang chính ngọ, thành thử cả hai bố con cùng chịu mặt trời dọi
thẳng đỉnh đầu. Sống mũi cay cay, cổ họng nghèn nghẹn muốn kêu trời, may
ông ghìm được: Nón mũ đâu mà con tôi dãi nắng thế này. Chả biết gì đến
cảm xúc của ông, nó hồn nhiên quệt mồ hôi ròng ròng hai má, rồi dẩu đôi
môi con trẻ thỏ thẻ vào tai bố: Đi lúc giữa trưa nắng mới không bị các
ông bảo vệ nông đuổi về bố ạ. Ngọn rau lang luộc chấm mắm cáy ngon lắm.
Mẹ bảo phải ăn nhiều rau xanh mới chóng lớn. Hai bố con nắm tay nhau vào
đến giữa sân, lúc ấy ba gian nhà tranh im ắng như tờ. Vợ ông đang giữa
buổi dạy học chưa về. Ra bến ao, ông đứng nín lặng nhìn mẹ ông đang sắn
quần lội ven mép nước ngập qua đầu gối. Một bàn tay bà cầm cây sào tre
khều khều hú họa, một bàn tay sờ sẫm vớt từng cụm bèo cái bỏ vào miệng
rổ. Rổ đầy, bà quờ quạng chống cây sào, lẩy bẩy lần về phía cầu ao. Muốn
chào hỏi mẹ, nhưng ông không cất được nên lời. Đứng sau ông, con bé
nhanh nhẩu gọi bà: Bố con đã về bà ơi. Mẹ ông giật mình hướng đôi mắt
đục lờ cùi nhãn về phía ông: Ối giời ơi, con ở nhà được lâu không? Vợ
anh cứ ngăn không cho mẹ lội xuống ao, nhưng thương nó mỗi ngày hai tay
trăm việc, mẹ ngồi một chỗ không đành.
Trưa ấy vợ ông về muộn. Vừa vội
vã nấu cơm, vợ ông vừa kể buổi họp công đoàn nhà trường kéo dài cả
tiếng đồng hồ vẫn chưa thống nhất được phương án chia nhau mấy mặt hàng
phân phối. Nhu cầu thiết yếu ai cũng thiếu, số lượng ngọ ngằn không đủ
cho mọi người. Chả ai chịu nhường ai. Đành làm phiếu rút thăm, trúng gì
mua nấy, khỏi thắc mắc. Kết quả thật bi hài, thày giáo chưa vợ thì rút
được hai mét vải màn vệ sinh phụ nữ. Cô giáo chưa chồng rút được chiếc
áo may ô đàn ông … Tan cuộc ai nấy đỏ mặt cười xòa rồi xí xóa nhường
nhau vô cùng thân ái. Dứt chuyện, vợ ông kết luận: Cái dân mình nó vậy
anh ạ. Thấy thương ghê. Đến bữa cơm, ông hỏi sao không đến nhà trẻ đón
con Lành? Mẹ ông bảo: Để nó ở đấy cả ngày kiếm bữa cháo dinh dưỡng hợp
tác xã nuôi các cháu, chiều tối tan trường mẹ nó tạt vào đón con một
thể. Chiều ấy ông mải dọi lại mái chuồng lợn nhiều chỗ rạ đã mòn cùn trơ
cả đòn tay tre, quá cả giờ đón con. Vợ ông cũng về muộn vì còn đợi mua
phân phối năm chiếc bát sứ Hải dương. Cô giữ trẻ phải dẫn con Lành trao
tận nhà. Chưa qua khỏi cổng nó đã mếu máo ngọng nghịu: Bơm eng đâu, Bơm
eng đâu? (Cơm em đâu) nghe mà xót ruột. Vậy mà bây giờ nó đã bốn chục
tuổi rồi, con trai nó được nhà nước chọn đi du học bên châu Âu. Mấy năm
nữa thôi, nó sẽ lên chức mẹ chồng. Không chừng đầu năm cuối năm đã được
bồng cháu nội. Nghĩ tới đó, tự dưng lòng ông chùng xuống. Mới xa rời
quân ngũ mươi năm, đi đứng chậm lại đã đành, nhịp sống của ông coi bộ
đang dần chậm lại. Ngẫm câu bóng ngựa chạy qua cửa sổ, ông Bảo se sẽ
buông một tiếng thở dài.
Ông Bảo cưới vợ được dăm năm,
đứa con gái đầu lòng của ông lên ba tuổi thì mẹ ông mù hẳn. Căn bệnh
quái ác này ở quê ông không hiếm. Cứ mươi gái làng dễ chừng sáu, bẩy cô
mắt toét ba vành. Đến lúc tuổi già thì lòa hẳn. Ngày xưa các cụ bảo toét
mắt bởi tại hướng đình. Nhưng ông biết bởi tại chẫm sáng chẫm tối họ
phải cúi mặt trên cánh đồng thuốc lào. Cái giống tương tư thảo rất bình
dân, rất xuề xòa hào phóng cho thiên hạ những cơn say nghiêng ngả, bao
con nghiện đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên ấy, lại tiết ra nhiều
chất độc hại cho những người gieo trồng nó, từ gáo phân tươi chưa nhiều
vi trùng, từ khâu thu hái, xấy lá và thái ra từng sơi thuốc nhỏ, công
đoạn nàođôi người ta cũng bịô nhiễm từng ngày . Mẹ ông bị mù là do vậy.
Nhưng bà phát bệnh sớm hơn người khác, có thể do bà khổ nhiều, khóc
nhiều khiến đôi mắt sớm mất đi ánh sáng cũng nên. Thời kháng chiến chống
Pháp, cha ông bí mật tham gia Việt Minh, được tổ chức cài vào chân lính
dõng trong dinh quận trưởng. Bao nhiêu tin tức tình báo đều do bố ông
cung cấp. Một lần ta tấn công dinh quận trưởng, cha ông cảm tử mở cổng
đồn, vướng đạn hy sinh. Năm ấy ông lên mười tuổi. Sau hòa bình 1954, cha
ông được chính quyền xác nhận công lao, được vinh danh liệt sĩ, được
cấp bằng Tổ Quốc Ghi Công.
Bây giờ, chiều thứ bẩy nào con Yên cũng
lái xe về thăm mẹ. Cơm tối xong, hai đứa hỏi ông qua loa vài câu rồi vào
buồng quấn quýt với mẹ già. Đang giữa mùa mưa, gió đưa hơi ẩm vào đầy
nhà. Người khỏe còn cảm thấy khó chịu, huống hồ người bệnh. Con Yên đấm
lưng, con Lành xoa bóp hai cánh tay mẹ. Còn bà thì nén đau rủ rỉ hỏi
con, dặn con, cứ như là những lời trăn trối cuối cùng: Mẹ hỏi hai đứa,
trong ngăn tủ đứng, bố mày quý nhất thứ gì, biết không? Con lành láu táu
nói đại: Chiếc ba toong và cái mũ phớt hai thằng cháu ngoại mới gửi về
biếu ông phải không mẹ? Con chị chín chắn hơn: Con đoán cái bi đông bị
thủng hai lỗ đạn bố mang từ chiến trường về. Nghe vậy, bà Bình thủ thỉ
với con mà như nói với mình: Những thứ ấy bố con đều quý cả, nhưng bộ
quân phục, chiếc mũ gắn sao, và cặp quân hàm đại tá thì không gì sánh
được. Bố già rồi, lãng tính rồi, các con phải luôn để mắt đến mấy thứ ấy
thay mẹ, nhà mình nhiều gián, chuột, nó ngứa răng cắn thủng thì ông ấy
buồn lắm đấy. Mỗi lần được mời về đơn vị cũ dự những hội nghị quan
trọng, bố con đều trịnh trọng khoác nó lên người. Đứng trước gương ông
nghiêm nghị bảo mẹ: Đã mặc quân phục, đeo lon đại tá thì phải chỉn chu
ra đại tá. Luộm thuộm một tí là vi phạm quân phong quân kỷ đó, bà hiểu
chưa? Con em lanh chanh chất vấn: Vậy sao ngày thường bố cứ là xà bộ py
gia ma mấy ngày không giặt. Hôi xì. Ấy, mẹ muốn dặn các con thêm điều ấy
đấy. Bố mày mồ hôi dầu, quần áo mặc một ngày đã bốc mùi hôi, người già
lười tắm táp, giặt giũ, ở với bố hằng ngày, con Lành phải kheo khéo nhắc
bố đấy. Hễ thấy thứ đồ nào hơi cũ là bí mật vứt đi, thay vào bộ mới.
Bây giờ quần áo rẻ rề, nhưng cũng do chịu khổ sở thiếu thốn nhiều rồi,
bỏ đi, bố con cho là phí của. Mẹ đem lau nhà chiếc áo may ô thủng lưng
cũng cứ cẳn nhẳn hoài. À còn điều này nữa, bố mày tính nóng như lửa. Dạo
này mười phần chỉ còn một vài thôi. Nhớ đừng bao giờ cãi lời bố đấy. Bố
nói không đúng cũng cứ im lặng, kẻo bố con tức giận, huyết áp lên cao
thì khổ lắm.
Lần khác, ông Bảo nghe bà vợ dạy con: Các
chị là hư lắm đấy, không đứa nào có rổ đồ may. Cúc áo bị rớt, ống quần
suột chỉ, chả lẽ vứt đi, hay tí chút cũng mang ra thợ. Rồi sau này có
các cháu nhỏ nữa, chúng hiếu động, quần áo bị suột chỉ xẩy ra hằng ngày.
Không nhớ ngày xưa tôi thức chả biết bao nhiêu đêm khâu vá quần áo rách
toạc toài cho các chị sao? Con Lành cười nắc nẻ ngắt lời mẹ: Thời buổi
toàn cầu hóa tới nơi mà mẹ còn khốt ta bít vậy. Cha bố cô, chúng tôi
không khốt ta bít thì bây giờ thế hệ các cô có được như vầy. À, còn
chuyện này mẹ muốn nhắc: Hai đứa còn nhớ thuở nhà mình còn ở ngoài quê,
cái lần hai chị em lới quới ôm nhau sắp chết đuối dưới ao cạnh sân kho
hợp tác ấy? Người nhảy xuống cứu các con là ông Quỳ đấy. Ông Quỳ đã mất
gần chục năm rồi. Khi nào có dịp về quê, chị em con nhớ tìm đến thắp cho
ông ba nén hương, Ơn cứu mạng trả mấy cho vừa. Hôm ấy con Lành uống đầy
bụng nước, suýt chết. Cứ nghĩ đến, tim mẹ lại đau thon thót.
Mỗi chiều thứ bẩy con Yên bịn
rịn chào bố mẹ rồi đánh xe về thành phố. Sáng thứ hai con Lành lo sữa
cho mẹ, mua cho bố bữa sáng tô gì đó, rồi vội vã đến cơ quan. Ở nhà chỉ
còn hai ông bà. Bà mệt thì ông vào buồng ngồi ké mép giường thù thì
chuyện làng chuyện xóm. Bà đỡ đỡ thì hai người ngồi chung chiếc ghế đôi
bên bàn nước phòng ngoài. Tuần trước bà làm bộ chợt nhớ ra, cầm tay ông
hỏi: Ông nghe tin ông Hanh làng mình mới mất chưa? Ông cao giọng hỏi
lại: Cái thằng Hanh chột ngày xưa theo đuổi bà chứ gì? Cái thằng chột
thư ký ủy ban ấy, lúc tôi được đơn vị cử đi học sĩ quan, do ghen tức nó
đã liều lĩnh giấu Đảng ủy phê vào lý lịch thẩm tra của tôi: Bố bị cách
mạng xử trí vì tội làm tay sai chọ địch. Ngày ấy, bà và mẹ tôi không ra
sức can ngăn thì tôi đã cho nó một trận chột nốt mắt kia rồi. Ông cứ
nóng nảy sinh mất khôn, tính nào tật ấy. Sau vụ ấy, người ta đã bị kỷ
luật đuổi về làm anh dân cày rồi. Bây giờ đã chết rồi, ông còn để bụng
làm gì. Tha thứ được thì cõi lòng thêm yên hàn, thanh thản ông ạ.
Trong cái hộp sơn mài bà Bình cất kỹ
dưới đáy rương, có quyển nhật ký bà ghi tỉ mỉ từng ngày các con ngủ
nghê, nhức đầu sổ mũi cùng bao chuyện ngô nghĩnh tuổi thơ, từ lúc chúng
còn đỏ hoe hoe cho tới ngày chúng nhận được tháng lương đầu tiên, ngày
chúng lấy chồng. Ở trong hộp ấy còn chiếc đồng hồ Poljot nữ của cô trung
úy thông tin ông Bảo dẫn về thăm nhà năm xưa mà bà rất trân trọng giữ
gìn, nước mạ vàng còn óng ánh. Ngày ấy, đời sống nhà nào cũng chật vật.
Gặp khách, chẳng mấy ai có tiền đi chợ, Đàn gà nhà bà chỉ có hai con,
một gà mẹ đang nuôi mươi gà con mới nở, một con trống già sáng sáng gáy ó
ò o báo thức. Bà đã giấu ông giết con trống đãi khách. Cái Yên năm ấy
còn nhỏ quá, đã ngây thơ nói với cô trung úy trong bữa cơm chiều làm bà
ngượng chín mặt: Vậy là sáng mai chú gà trống của cháu hết được ò ó o
gọi cháu dậy sớm để chuẩn bị đi học rồi. Thương nó quá.
Bà chưa có cơ hội nói lời xin lỗi với cô
bạn đồng ngũ của chồng, thì tờ mờ sáng hôm sau, ông Bình và cô trung úy
đã vội vàng từ biệt gia đình khoác ba lô lên đường cho kịp giờ tầu chạy.
Dạy xong buổi sáng, về nhà bà Bình mới nhìn thấy lá thư và chiếc đồng
hồ ấy để trên mặt bàn. Lá thư cô viết bóng gió, xin chị nhận của em
chiếc đồng hồ này, coi như kỷ niệm của đứa em gái sắp đi xa. Ngày ấy bà
chưa hiểu hết ý tứ, cứ cho là con Yên nói câu ấy làm cô phiền lòng. Mãi
hơn chục năm sau, chồng bà lành lặn trở về, bà mới được ông kể rõ mọi
chuyện. Hôm ấy, ban chỉ huy tiểu đoàn cử ông thay mặt đơn vị về cùng địa
phương làm lễ truy điệu chồng chị trung úy ấy. Tiện đường, ông về từ
biệt gia đình đi B. Hành quân vào nam là bí mật quân sự, nên ông phải
nén lòng làm như một cuộc thăm nhà bình thường. Hai năm sau cô Trung úy
ấy đã anh dũng hy sinh. Từ đấy, trong thâm tâm bà đã coi cô trung úy ấy
là đứa em ruột thịt của mình, mỗi năm chưa bao giờ bà quên cúng giỗ.
Năm nay mưa muộn. Sang nửa tháng chín ta
rồi mà còn vần vũ những đám mây đen trút mưa rả rích liên miên mấy ngày.
Chiều nay trời tạnh ráo. Có chút nắng hanh phủ vàng ngọn cây bằng lăng
ngoài cổng. Bà nhờ ông dìu ra trước nhà, hai người tựa vai nhau ngồi
trên bậc thềm. Ngước mắt nhìn bầu trời quang mây, da trời đột nhiên xanh
thắm đến lạ lùng, bà thì thầm: Bữa nay mới thứ năm, lòng dạ tôi cứ bồn
chồn làm sao ấy. Ngày mai con Yên mới về, lâu quá. Ông bây giờ lãng tính
nhiều rồi. Những ngày giỗ ông bà cha mẹ hai bên, tôi đã ghi hết vào
cuốn sổ nhật ký cất trong cái hộp sơn mài ấy. Ông chép ra một tờ giấy
lớn dán lên vách bàn thờ, để hằng ngày con cháu đọc thấy mà nhập tâm,
kẻo quên giỗ thì mắc tội với tổ tiên. Cả ngày giỗ của cô trung úy em tôi
nữa đấy. Ngừng một lát, giọng bà nhỏ dần: Tôi nhớ quê cha đất tổ vô
cùng ông ạ. Muốn về thăm cố hương lần nữa, màđau yếu thế này, sợ ngả
bệnh nặng ở ngoàiấy thì khổ cả nhà. Ông vỗ lưng bà nhè nhẹ thay cho lời
hứa hẹn. Chợt ông nghe tiếng bà đứt đoạn và nhẹ như gió thoảng: Tôi ra
đi không cô đơn đâu ông ơi. Ai như vợ chồng em trung úy đang đợi tôi
trên ngọn cây bằng lăng rực rỡ kia kìa.
Ông nhìn lên ngọn cây đầu ngõ, chỉ thấy
đọng trên ấy loang loang nắng nhạt và những làn sương khói tim tím dâng
đầy, nhè nhẹ bay lên, bay lên. Bên vai ông, mái đầu bà nặng dần, nặng
dần. Trong vòng tay ông, thân thể bà lạnh dần, lạnh dần. Ông biết bà đã
ra đi. Hồn bà đã nhẹ nhàng nhập vào sương khói. Chiều cuối thu hênh hểnh
nắng vàng, vừa đẹp lạ lùng, vừa buồn ảo não. Cùng lúc ấy, từ khuôn cửa
sổ nhà bên vọng đến tai ông giai điệu du dương vấn vít chuỗi ca từ buồn
như sương như khói dâng ngập hồn ông nỗi niềm tiếc thương nhung nhớ mơ
hồ: Chiều nay sương khói lên khơi.Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Đà giang thuyền qua xứ người …
5-10-2016
Trích trong Tập truyện ngắn Phố Ninh ký sự (sắp xuất bản) TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét