Bất
ngờ vào một buổi làm việc, tôi nhận một phòng bì dày cộm. Mở ra, giật
mình. Tập bản thảo của Cảnh Trà. Cả trăm bài. Hai tập được đóng bìa hẳn
hoi. Còn vài bài lẻ cũng gởi kèm. Thế mà có lúc tôi cứ ngỡ Cảnh Trà đã
gác bút, đã yên phận với công việc của xã Hoà Thạnh ( Châu Thành- Tây
Ninh). Thậm chí có lúc còn nghĩ tệ hơn: ông này lo cái gì đâu không
biết, còn biết gì đến thơ với phú nữa. Thế mà cả trăm bài. Có ý đồ hẳn
hoi. Tập bản thảo thứ nhất anh dành để viết về quê hương, về những người
thân quen, ruột thịt mà anh nhớ đến.
Tập
thứ hai, anh dành cho nơi anh đang sống, cùng với một số bài nhớ về
những ngày chiến đấu xưa, khi anh còn là một anh lính trụ bám ở đất lửa
Vĩnh Linh. Những bản thảo rời là những bài mới viết. Thì ra thế, cái
người đã vướng vào nghiệp văn chương rồi thì dễ gì mà bỏ cho được, nhất
là với Cảnh Trà, người đã một thời cận kề với khốc liệt chiến tranh mà
vẫn làm thơ. Những bài thơ đã lọt vào con mắt tinh tường của Hoài Thanh,
một trong những nhà phê bình hàng đầu của Việt nam, rung động mà viết
một bài giới thiệu khá dài có cái tên rất ấn tượng: CẢNH TRÀ, MỘT TIẾNG
THƠ TỪ TUYẾN LỬA VĨNH LINH. Đó là vào những năm 70 - 80 của thế kỷ
trước. Ngay từ ngày ấy, thơ Cảnh Trà thực sự đã có vị trí trong làng thơ
Việt Nam rồi. Sau gần hai chục năm trời, thêm một tập thơ mới của Cảnh
Trà: NHỮNG CỌNG RAU TẬP TÀNG, là những bài thơ chắt ra từ những bản thảo
vừa nói ở trên.
Thơ
Cảnh Trà hôm nay có rất nhiều cái khác so với thời anh ở tuyến lửa. Sự
hoài niệm trong anh trội hẳn lên. Quê hương và những người thân lần lượt
xuất hiện trên từng trang bản thảo của anh. Vẫn cứ chân chất giản dị
như ngày xưa, song có lẽ cái chân quê của xứ nơi anh sinh ra nó thấm vào
anh mà thành thơ anh. Về cha, mẹ, về anh, về bà nội, bà ngoại, về những
đứa trẻ một thời, cả những chú, những o… Những bài thơ ấy là phần đậm
đà nhất trong thơ Cảnh Trà. Khi anh nhớ về cha là cả một nỗi đau của con
mất cha:
Đây không phải nỗi đauCủa đinh đâm dao cắtKhông phải nỗi đauCủa búa đập lửa nungNỗi đau của cô đơn
Nỗi
xót xa nhớ người thân trong Cảnh Trà càng xót xa hơn, khi anh viết về
mẹ. Người mẹ tảo tần, trông cậy vào gánh hàng rong để nuôi các con. Có
điều có thể viết ra, nhưng cũng có những điều không thể, nhưng bên trong
những con chữ của anh có thể thấy được số phận một con người:
Vai gầy quẩy gánh hàng rongĐè lên tóc rối tang chồng, tang conRuộng vườn nhà cửa không cònNgẩn ngơ không hiểu vì cơn cớ gì?
Cơn cớ gì đây, để:
Tre thưa tiền lọt xuống sànGió qua nhà trống phổi khàn tiếng hoĐêm đêm tiếng mẹ kêu đòNgỡ như tiếng vạc, tiếng cò Mẹ ơi.
Có
cơn cớ đấy, song đâu cần phải nói ra, chỉ biết đã có người mẹ một đời
lam lũ, một đời nổi trôi thân phận vì thay chồng nuôi dậy con lớn khôn.
Đau mất cha, buồn nỗi gian truân đời mẹ mà những câu thơ trở nên day
dứt, day dứt đến đứt ruột.
Không chỉ thế, khi khắc họa về một người thân khác, trong bài KHÔNG ĐỀ,
(tặng chú Văn) thơ Cảnh Trà bỗng đột ngột chuyển giọng:
Gió cứ thổi mù trờiSa mạc tình ngườiNhục Và ĐóiGối mỏiMắt hoaĐường còn xaDặm dàiThăm thẳmHiệp sĩ vẫn điLẳng lặngLầm lỳGiữa hiểm nguyLê từng bước nặng
Cảnh
Trà đã tạc vào không gian, vào lòng người một hình ảnh đậm nét về một
con người trải qua hết mọi gian nan khổ cực, trước hết vì sự tồn tại của
mình. Bão giông, sấm chớp và cái chết cận kề, nhưng rồi cũng phải khuất
phục con người kên cường kia. Nhất là khi : cõng trên lưng mười mấy
mạng người, và khi: khơi bếp lửa giữa rừng thiêng thảo dược.
Con người ấy đã:
TừBùnThanlệ đắngmáu tươi!
mà đứng dậy, làm người cho mình và làm người cho mọi người.
Chất bi trong bài thơ này đậm bao nhiêu, thì chất hùng càng thêm sâu sắc.
Mỗi
một bài thơ là một kỷ niệm dào dạt của Cảnh Trà, đến ngủ ở nhà bà nội
thì được nghe bà dạy: giàu không hà tiện, khó liền tay, khó không hà
tiện khó ăn mày”. Bây giờ còn nghe tiếng bà ngoại la “trốc trần”, khi lo
cháu con đội nắng mà lâm bệnh. Một đọi cơm rang của bà mự ngon hơn bất
cứ sơn hào hải vị nào, vì trong hạt cơm rang ấy chứa đựng cả tình người.
Mỗi một người thân xuất hiện trong thơ Cảnh Trà là một nỗi niềm. Chị
thì già nua yếu đuối, gặp em thương lắm “nói” bằng tay. Anh trai mất vợ,
các em xúm lại đi hỏi vợ mới cho anh. Bà o xưa đẹp nhất nhì làng, gặp
cháu là vui. Đi tìm anh trai thất lạc đâu đó. Đi viếng người đã chết.
Tình quê cứ hiện dần trên những dòng thơ của Cảnh Trà. Nhưng nếu chỉ một
chút riêng tư thôi thì chưa phải là thơ Cảnh Trà. Với những người thân,
Cảnh Trà muốn nói lên tất cả sự day dứt của người xa quê, nhưng lại yêu
quê hương tha thiết. Hiềm một nỗi cuộc sống không cho phép anh trở về
với miền quê yêu dấu của mình. Lấy người thân làm cái cớ để anh nói được
lòng mình. Những Gôi, chợ Liệu, rào Cả, Truông, Bố Đức, Hoành Sơn, Vạn
Rú, chợ Rồng, chợ Vực, chợ Ngang, Rú Hốc… lần lượt được Cảnh Trà gọi ra
trong thơ, như gọi trong tiềm thức những kỷ niệm không sao quên được.
Rồi “ đọi cơm rang”, “đĩa dưa muối quả cà, thìa tương ngọt mặn, trái khế
chua ít cọng đọt rau lang”, “bánh đúc đỏ, bún ốc, ruốc…” tất cả cũng
được sống dậy trong tiềm thức của anh mà thành thơ anh hôm nay. Rõ ràng
ra một miền quê nghèo nhưng chan chứa tình đời, tình người. Trai thời
chiến, mười tám đôi mươi vào bộ đội, đi chiến trường, rồi đi làm báo,
làm đài, rong ruổi trên mọi nẻo đường đất nước tính ra đã gần năm chục
năm trời mà hôm nay khi viết về quê hương, anh vẫn viết:
Đàn bò bước chênh vênh ngoạm lá cỏ cằnXác xơ trên kẽ đáNhững bụi sim gồng mình trong nắng lửaLá rung rinh gió thổi phì phào
Rồi cũng gần năm chục năm trời xa quê vẫn nhớ cả câu hát đồng dao của bầy trẻ ngày xưa:
“Bọ bò phần chabạc da phần mẹbẹ bé phần emlọm lem bỏ mồm”
Mới
thấy Cảnh Trà còn nặng lòng với quê mình biết mấy. Nhớ đến quay quắt,
nhớ đến nao lòng cái xứ Nghệ chan chứa yêu thương kia.
NHỮNG
CỌNG RAU TẬP TÀNG không chỉ có như vậy. Dăm ba bài nghiền ngẫm sự đời.
Dăm ba bài trải hồn mình ra với trăng, sông, núi, mây mưa. Lại có dăm ba
bài khác cho người đọc thấy cảnh cô đơn của người cầm bút, trước bao
biến động của xã hội, trước bao đổi thay của lòng dạ con người. Đặc biệt
là những bài được viết về hồi ức trong chiến tranh. Một đứa trẻ ngây
thơ thấy trái bom ổi, ngỡ là trái ổi nhặt lên. Trái ổi nổ, thằng bé
chết. Chiến tranh lùi xa rồi mà đến hôm nay tiếng nổ vẫn cứ còn và người
cứ chết như trong chiến tranh. Người đàn bà cho đến hôm nay, trong lúc
chợt thiếp ngủ vẫn còn mơ thấy người yêu xưa, người từng thề non hẹn
biển trước lúc lên đường đi chiến đấu rồi mãi mãi không về. Trong giấc
mơ ấy là lời trách cứ:
Sao ngày ấy anh không chịu nghe emXin thày mẹ cho làm lễ cướiHay vụng trộm trong lùm, trong bụiĐể lại cho em đứa con?Những việc ấy sao anh không làm?…
Lòng
thủy chung của người đàn bà đâu có cần phải lên gân, lên cốt, bấy nhiêu
lời trách cứ cũng để nói lên tình yêu trong sáng ngày xưa, và tình yêu
ấy cứ vấn vương trong người đàn bà sau mười năm nhận giấy báo tử của
người mình yêu.
Tôi
không muốn trích nhiều thơ của Cảnh Trà trong một bài viết như thế này
mà chỉ muốn giới thiệu đôi ba điều cảm nhận của riêng mình sau khi đọc
thơ anh, chỉ nêu những gì ấn tượng nhất khi đọc anh từ bản thảo. Và
trước mặt tôi còn cả bài viết của nhà phê bình Hoài Thanh về thơ Cảnh
Trà khiến tôi cũng băn khoăn khi viết về thơ anh, sợ mình viết không tới
những gì mà anh có. Cuối cùng chỉ trích một câu thơ của anh đã nổi
tiếng từ những ngày cách đây hơn 20 năm:
Trên đất nàyChờ bom dứt chỉ là điều mơ mộngTất cả đều là trong báo độngTất cả như là trong báo yên.
Bạn
đọc thử ngẫm xem, hình như ngay cả bây giờ câu thơ ấy vẫn còn là thời
sự đấy. Nhưng bây giờ không bom, không đạn, cuộc chiến cũng cam go khôn
cùng. Báo động, báo yên ngay trong mỗi một con người…
*
Rồi hôm nay, tập thơ thứ hai, có cái tên mộc mạc: NHỮNG CƠN
MƯA. Cũng như tập thơ trước, chẳng có bài nào trong tập được chọn làm
tên sách. Lần trước khi đọc xong tập bản thảo của anh, tôi hỏi tại sao
anh lại đặt tên tập là NHỮNG CỌNG RAU TẬP TÀNG? Anh cười đọc cho tôi
nghe một câu tục ngữ mà như anh nói, ai cũng biết ai cũng thuộc: “ rau
tập tàng thì ngon, con tập tàng thì khôn”. Cái lão này thế mà hóm. Hôm
đó tôi đã nói với anh như vậy. Thế thì ở tập thơ này, chắc là anh cũng
có dụng ý gì đây.
Nhưng
có lẽ trước hết phải kể chút ít về Cảnh Trà đã. Không nói gì nhiều về
thân thế sự nghiệp của anh làm gì. Chỉ nói về đoạn sau đời anh thôi.
Trước đây anh làm phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, thường trú tại
thành phố Hồ Chí Minh . Khi chiến tranh biên giới xẩy ra, anh đã có mặt
tại Châu Thành, Tây Ninh. Đã có lúc anh sống và viết ngay trên mảnh đất
này khi còn giăng giăng mìn của Khmer Đỏ cài lại. Có lẽ vì thế, ông Tám
Vân, chủ tịch huyện lúc bấy giờ rất quý mến anh. Nhưng có lẽ người quý
mến anh đặc biệt hơn cả là ông Hai Bình, bí thư đảng uỷ xã Hoà Thạnh.
Nghe tin anh về hưu, ông Hai Bình tìm mọi cách kéo anh về làm Chủ tịch
mặt trận xã. Nể quá, anh nhận lời. Không hiểu vì sao, anh có thể ngồi ở
cái ghế chủ tịch mặt trận này lâu đến như thế? Mà hình như xã Hoà Thạnh
cũng chưa muốn để ai làm thay anh. Thôi thì đủ mọi thư vận động. Nhà
tình nghĩa, nhà tình thương, ủng hộ người nghèo, lo đời sống đồng bào
dân tộc Khmer… công việc “ thổi tù và” ấy kéo dài hơn chục năm nay rồi,
anh vẫn chưa nghỉ. Có một chuyện vui thế này: đã làm chủ tịch thì phải
viết báo cáo. Hồi đó đến kỳ phải nộp báo cáo. Mà báo cáo của ta thì ai
mà không biết, từ trung ương đến địa phương hình như chỉ có một cái mẫu.
Làm mà không đúng cái mẫu đó là không được. Nhà thơ kính mến của chúng
ta muốn làm một cuộc “cải cách” với một bản báo cáo ngắn gọn, đủ ý, đủ
lời và đủ thông tin. Mấy ngày sau, nhà thơ của chúng ta nhận lại bản báo
cáo ấy với dòng chua của một ông chắc là cán bộ lớn lắm của tỉnh Tây
Ninh: “Không biết làm báo cáo, cần phải cho đi học lại”. Đành vậy chứ
sao bây giờ. Làm lại, đúng như bài bản. Khi kể chuyện này nhà thơ Cảnh
Trà vẫn với cái giọng thật thà nhưng có chút hóm hỉnh: “Mình quên, viết
báo cáo mà tưởng đang làm thơ. Ít chữ, kiệm lời, ý tại ngôn ngoại, chết
người”. Anh được huyện Châu Thành cấp cho một lô đất ở thị trấn. Anh
dành để cất nhà cho vợ và các con ở. Còn anh, anh lên ở ngay tại xã Hoà
Thạnh. Đất đai anh trồng đủ thứ. Ngoài mấy cây tầm vông, mấy cây mít vào
loại có giá, còn lại là cỏ và chồi cây rừng còn sót lại. Anh làm một
cái chòi theo đúng nghĩa. Thấp chủm, nền đất, và trong đó chỉ kê được
một cái giường con, một cái bàn con. Sau này khi biết được chỗ ở của
anh, tôi đã dẫn nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, nhà thơ Phạm Quốc Ca và nhà văn
Tô Đức Chiêu lên thăm anh. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Vốn quen
biết nhau từ thời làm thơ trong chiến tranh, Nguyễn Đức Mậu có vẻ như
ngậm ngùi cám cảnh trước sự đơn chiếc quạnh hiu của bạn thơ. Phạm Quốc
Ca thì lắc đầu. Còn tôi phải nhắc nhà văn Tô Đức Chiêu: “Tô đại nhân có
vào chòi thì không được đứng lên đấy. Coi chừng đại nhân cao lớn vậy đội
cả nóc chòi của nhà thơ lên không có tiền mà bồi thường đâu”. Cuộc gặp
gỡ giữa các nhà văn, nhà thơ sau đó phải di dời lên ngay bờ sông Vàm Cỏ
Đông, nơi tiếp giáp với nước bạn Campuchia. Lúc đó, trời xế chiều, dòng
sông lóng lánh những giọt nắng. Ly rượu chuyền tay, không ồn ào, mà từ
tốn, nhẹ nhàng với những câu chuyện làm xao xuyến lòng nhau. Toàn là
những kỷ niệm. Toàn là những câu thơ tâm đắc. Và cũng lạ, không ai hỏi
thăm về cảnh riêng cuộc sống của Cảnh Trà. Giống như sự đương nhiên. Nhà
văn, nhà thơ, sướng hay khổ, giàu hay nghèo, hạnh phúc hay lẻ loi đơn
chiếc là chuyện riêng của mỗi người. Điều quan trọng hơn còn hồn văn
không, còn hồn thơ không kìa. Anh có ghi lại chuyện này trong bài thơ
NHỚ NGÀY BẠN VĂN ĐẾN THĂM và in trong tập NHỮNG CƠN MƯA mà tôi có trong
tay. Trước đây, anh cho một chủ trại quan tài mượn đất phía trước cửa.
Tôi thường nói giỡn: “Muốn đến nhà thơ Cảnh Trà, qua phà Bến Sỏi, đến
chợ Hoà Bình hỏi đến xã Hoà Thạnh. Trên đường đến Hoà Thạnh gặp một ngã
ba quẹo trái. Chạy chừng hơn trăm thước thấy chỗ nào chất đống quan tài
đỏ thì chạy vô. Đó là chòi của nhà thơ Cảnh Trà”. Có lúc cao hứng tôi
đọc mấy câu thơ tặng anh:
Một mình lắng giữa vườn hoangNghe chim hót tưởng mình đang lên trờiNổi nênh một kiếp con ngườiCâu thơ còn đọng một thời ngu ngơNgu ngơ đến tận bây giờGiữa vườn hoang vật câu thơ ra làm.
Không.
Không ngu ngơ một chút nào. Tôi sai rồi khi cầm tập thơ NHỮNG CƠN MƯA
trên tay. Nếu ở tập NHỮNG CỌNG RAU TẬP TÀNG đằm thắm nghĩa tình với quê
hương xứ Nghệ, người xứ Nghệ thì ở tập này, Cảnh Trà mới phô ra sự già
dặn của một người làm thơ quen với sự trầm lắng, quen với cách nhìn thật
kỹ, thật sâu, để khi viết ra thấy vững vàng sự trải nghiệm.
Xin
cùng đọc bài thơ in ở cuối tập: ngày mới/ mong/ không phải chịu/ những
cái bắt tay/ khô và lơi/ lỏng và lạnh/ bồn chồn/ chỉ mong/ được gặp/
những cái bắt tay/ chặt mềm và ấm/ Bình yên. (NHỮNG CÁI BẮT TAY)
Không
nhiều lời mà nhiều nỗi niềm, nhiều cả sự tưởng tượng nữa. Gặp nhau, bắt
tay nhau, ấy là chuyện thường. Sung sướng biết bao nhiêu khi ta gặp một
người, hai bàn tay đưa ra nắm lấy nhau xiết chặt. Cái tình người nồng
hậu nó hiện ra ngay trong cái bắt tay. Thêm một nụ cười nữa thì hoàn
hảo. Nhưng bỗng gặp một người có khi còn được giới thiệu đó là người bạn
thân thiết của mình nữa, nhưng khi bắt tay, bàn tay ấy không ra nắm,
không ra buông, lòng bàn tay có khi còn lành lạnh nữa thì thật thất
vọng. Người phương Tây người ta gặp nhau là ôm lấy nhau mà hôn. Ở mình
ngày xưa thời phong kiến, đế quốc gặp nhau cúi rạp xuống mà chào. Kẻ
dưới cúi thật thấp, kẻ trên gật gật cái đầu. Ta đã đấu tranh để rũ bỏ
cái kiểu chào nhau nô lệ ấy và mới lấy cái bắt tay để thể hiện sự tôn
trọng và thân thiết. Ấy vậy mà thà là ngoảnh mặt làm ngơ, còn hơn nắm
lấy tay nhau để nhận từ cái bắt tay sự thờ ơ nhạt nhẽo.
Đọc
hết tập thơ, có những bài làm tôi cứ man mác một nỗi buồn. Nỗi buồn sâu
thăm thẳm trong từng câu, từng chữ của Cảnh Trà. Thế mới lại càng thấy
người thơ vương vấn hồn thơ. Buồn, đúng là nguồn cơn, là tài sản của nhà
thơ. Nhưng cái buồn của Cảnh Trà nó gắn liền với những điều tai nghe
mắt thấy thường ngày. Anh vừa viết xong bài thơ mà sao lại buồn đến vậy
vì chẳng biết đó có phải là thơ không, thôi thì mình tự cho nó là thơ để
mà tự an ủi mình. Nhưng càng tự an ủi thì lại càng thấy mình bé nhỏ và:
Lại bắt đầu từ con số khôngRất đầyRất trònRất vĩ đạiCó ai đó hỏi thầm bên taiThơ là cái gì?KHÔNG ĐỀ (2)
Đến
tận lúc này mà còn hỏi thơ là gì ư, thưa nhà thơ? Một đời xoay xở với
những con chữ. Không nhiều như người ta nhưng cũng đủ để người ta nhớ,
người ta nhắc, người ta tìm… thế mà còn hỏi thơ là gì. Viết đến đây, tôi
nhớ một chuyện. Khi anh đưa bản thảo tập NHỮNG CỌNG RAU TẬP TÀNG đến
nhà xuất bản, anh có trao đổi với tôi. Trong đó anh cho in lại bài thơ
nổi tiếng một thời của anh. Đó là bài ĐƯA DÂU QUA CẦU BẾN HẢI. Tuổi tôi
nhỏ hơn anh, nghiệp văn đến với tôi muộn hơn anh, quả thực tôi chẳng dám
nói gì về bài thơ này, nhưng nó cứ gợn gợn một cái gì đó. Một hôm mượn
rượu (cám ơn rượu vì nhờ nó có khi người ta dám liều) tôi bảo anh: “anh
xem bài ĐƯA DÂU QUA CẦU BẾN HẢI in trong tập này có ổn không, nó không
đúng với không khí của toàn tập. Đang da diết với quê hương như thế,
bỗng lại có một bài mừng đại thắng. Hay thì hay thật, nhưng không hợp”.
Anh có vẻ trầm tư. Cả tuần sau anh điện cho tôi: “Chú nói phải đấy. Tôi
gọi điện xuống Hoàng Đình Quang, kêu chú ấy bỏ bài thơ ấy ra rồi” . Lần
gặp sau anh mới giải thích thêm: thơ nó lạ lắm chú ạ. Hôm nay thì nó
đúng, nó hay. Ngày mai đọc lại thấy kông được. Làm được một bài thơ lúc
nào cũng đúng cũng hay, để ở đâu cũng đúng cũng hay thật khó. Có phải vì
thế mà hôm nay anh vẫn cứ hỏi “thơlà cái gì?” Anh hỏi thì cứ hỏi, nhưng
làm thơ anh cứ làm. Và nỗi buồn trong anh cứ ứ tràn khi bắt gặp những
cảnh trớ trêu ở đời. Hội nghị chẳng hạn. Hội nghị thì có gì mà thành
thơ. Thế mà anh viết. Giỏi là ở chỗ anh bắt người đọc nghe được âm thanh
trong chữ. Một hội nghị, người dẫn chương trình làm công việc của mình
là giới thiệu quan khách. Giới thiệu lần đầu tiếng vỗ tay rào rào: cả
hội trường đứng dậy vỗ tay/ rốp… rốp… rốp…rốp… rốp. Giới thiệu thêm
người thứ hai vẫn còn: rốp… rốp… rốp… rốp. Nhưng đến lần thứ ba thì:
rốp… rốp… rộp. Còn lần thư tư, thứ năm… chỉ còn: rộp… rộp. Chữ rốp mất
dần, thay vào đó là chữ rộp. Rồi:
Tiếng vỗ tay thưa dầnNhỏ dầnNhạt dầnNhàm chánTIẾNG VỖ TAY
Cách
nói mộc mạc, cách nhìn mộc mạc nhưng bài thơ khiến cho ta có cảm giác
buồn. Buồn vì có những việc diễn ra một cách máy móc, buồn vì hình thức
nhạt nhẽo. Tôi nhớ có thời chúng ta lưu hành cụm từ “đổi mới tư duy”. Ấy
thế là khắp nơi đổimới tư duy. Tới ông tổ trưởng tổ dân phố cũng đổi
mới tư duy. Không nói đổi mới tư duy là không đổi mới. Nói thì cứ nói
còn đổi ra sao, làm sao đổi thì chưa hẳn ai cũng biết. Chao ôi, những
người dùng chữ hay đến tuyệt vời như các nhà thơ, nhà văn mà có được một
từ thôi ở đâu người ta cũng nhắc đến như đổi mới tư duy thì tuyệt vời
quá. Chúng ta bây giờ có quá nhiều hội nghị. Từ trung ương xuống đến tận
xã ấp, chỗ nào cũng thấy hội nghị. Những cán bộ đầu ngành ngày nào cũng
phải hội nghị. Một ông cán bộ có khi được bố trí vào không biết bao
nhiêu ban bệ. Ban an toàn giao thông, ban sinh đẻ có kế hoạch, ban phòng
chống ma tuý, ban bảo vệ môi trường, ban… Cứ có tên trong ban là phải
hội nghị. Có người từng hóm hỉnh nói: mỗi một cơ quan nên sắm lấy một
ông để chuyên đi họp. Chỗ nào cũng trịnh trọng giới thiệu, người ta chỉ
có thể vỗ tay nồng nhiệt một lần thôi, đâu có thể nồng nhiệt mãi được.
Mà vỗ tay chỉ là hình thức bề ngoài, còn cái bên trong mà Cảnh Trà muốn
nói là: Hội nghị vừa vừa thôi kẻo tốn người, tốn của, tốn thời gian. Xem
ra nhà thơ này ngây thơ thật. “Phi hội nghị bất thành… quản lý”. Cảnh
Trà buồn vì những chuyện như thế.
Đương
nhiên Cảnh Trà có cả những nỗi buồn riêng. Nhưng không phải như những
người làm thơ khác là than thân, trách phận, thương vay khóc mướn, tình
yêu dang dở. Nỗi buồn riêng của Cảnh Trà là nỗi buồn cho những thân phận
mà anh gặp.
Nhưng
nỗi buồn không phải tư tưởng chính trong thơ Cảnh Trà. Bao trùm trên đó
là sự hóm hỉnh thơ bao trùm hơn cả trong thơ Cảnh Trà là sự hóm hỉnh dễ
thương. Có một đêm nhà thơ mất ngủ. Tiếng dế kêu nỉ non. Mèo gào thảm
thiết. Mưa gõ rùng rùng trên mái tôn. Hàng xóm có người chết chồng, mùi
nhang khói phảng phất. Thế mà sáng ra:
Vợ hỏi đêm qua ai hớp hồnNhớ con mệ nào mà trằn trọcNghe xong đang buồn càng vui hơnChuyển cộng sang trừ, lạnh thành nựcMình bò ra cười trên giườngVợ khóc ỉ ương vạ dưới đất.MẤT NGỦ
Thương
cho cảnh đồng sàng dị mộng. Thì ra nhà thơ đâu có thao thức một mình mà
cả đêm vợ cũng không ngủ được. Ngấm ngầm ghen bóng ghen gió mà thương
chồng không làm chồng bận lòng, phải chờ đến sáng mới hỏi một câu. Một
câu thôi cũng đủ để nhà thơ hiểu được tấm lòng người vợ. Phải người khác
thì sẽ buông một vài câu xum xoe với vợ trong thơ mình, còn Cảnh Trà
thì thật thà hơn, vui quá vì vợ còn thương mình. Cười như thế thì vợ chỉ
nằm vạ chút chút thôi. Cái chuyện ghen tuông của chồng vợ trong thơ
Cảnh Trà đúng là để làm duyên, làm dáng. Có hiểu người chung chăn gối
với mình thì mới có thể cười bò ra khi vợ ghen như thế.
Không
phải đến bây giờ Cảnh Trà mới hóm hỉnh như vậy. Trong một bài thơ đề
ngày 11 tháng 2 năm 1973, viết về chuyến cùng Bế Kiến Quốc thăm núi chùa
Thầy, anh viết:
Gặp hai cô đứng chắp tayNgỡ Quốc là tiểu(đẹp trai quá chừng)Hai cô cúi đầu khom lưng“ai di đà Phật(mắt lưng mắt đầy)Quốc ta cúi đầu, chắp tay“hai cô đẹp thật”(mắt đầy mắt lưng)Hai cô đỏ mặt thẹn thùngBế Kiến Quốc lệ rưng rưng … cười xoà.
Ra cái chuyện trai lẳng gái lơ ghê, mà duyên dáng, kín đáo cũng ra dáng trai thanh gái lịch lắm lắm.
Đọc
bài thơ xong xứ phải tủm tỉm cười về sự lầm của cô gái, và câu tán khéo
của Bế Kiến Quốc. Bài thơ viết trên ba mươi năm, đọc ra vẫn thấy Bế
Kiến Quốc một thời trẻ măng và chắc là cũng nghịch ngợm, hóm hỉnh lắm.
Cũng cái đà hóm hỉnh ấy, Cảnh Trà đưa ta về với đồng ruộng. Thì tất
nhiên là có lúa, có nắng, có đất có gió đồng. Nhưng anh còn cho chúng ta
thấy sức sống mãnh liệt hơn ở miền quê ấy:
Trong tiếng cười rúc rích của trai gái làng ghẹo nhau quấn quýt vào nhau mùa động cỡn.Đêm trăng thanhMùa lúa no nê nồng nàn đa tìnhHương lúa thơm như môi em đê mê lim dim nóng sựcMÙA LÚA CHÍN
Nông
thôn vào ngày mùa lúa chín, nhà nhà vui vì thấy được cái ấm, cái no.
Nhưng ấm no thì chưa đủ, hạnh phúc mới là cái người ta vươn tới. Chẳng
lúc nào cánh đồng đông vui như ngày lúa chín. Tay liềm, tay hái, người
người ra đồng và trong lúc rộn ràng với công việc cũng là lúc những cuộc
tình nẩy nở. Những cặp gái trai đã tìm thấy nhau và hạnh phúc bắt đầu
đâm chồi, nẩy lộc. Để rồi sau đó là đám cưới, là sinh con, tạo ra lớp
người mới làm cho đồng lúa lại xanh, lại chín và mãi mãi bao giờ cũng có
xanh, lúa chín trên đồng. Cảnh Trà đã dùng cách nói rất riêng của mình
để cho người đọc hình dung được một cách cụ thể. Và nhất định khi đọc
thế nào cũng phải tủm tỉm cười vì sự hóm hỉnh của anh.
Buồn,
hóm hỉnh đã chạy suốt trong tập thơ NHỮNG CƠN MƯA. Anh chỉ trở lại sự
đằm thắm trong thơ khi lại trở về với xứ Nghệ quê anh. Anh dành khá
nhiều tình cảm cho bạn văn thơ mà anh quen biết, đó là Ngô Khắc Tài, Bế
Kiến Quốc, Nguyễn Quang Hà… tất nhiên là không thiếu vắng tôi, Nguyễn
Đức Thiện. Đọc hết tập thơ mới hiểu được anh. Đời người gặp biết mấy cơn
mưa. Cơn mưa nào cũng làm ta rười rựơi mát, nhưng cũng rười rượi buồn.
Bởi thế mới ra thơ. Mỗi câu thơ là mỗi giọt mưa. Mỗi bài thơ là một cơn
mưa. Có những cơn mưa sầm sập tối đất, tối trời. Có những cơn mưa rả
rích khêu gợi. Lại có những cơn mưa tưới mát hồn ta. Mưa trong thơ Cảnh
Trà có nắng, có hoàng hôn, có tình người đắm say, có bạn bè một thuở, có
những day dứt nỗi niềm và trong những cơn mưa ấy là cả một tấm lòng của
người thơ với đất trời và người. Rất may, tên tôi cũng góp cho anh một
giọt mưa trong thơ anh.
Còn
một điều cuối cùng muốn nói ở bài này là: nhà thơ Cảnh Trà sinh năm
1937 ở Nam Đàn, Nghệ An. Năm 1973 từ tuyến lửa Vĩnh Linh, anh ra dự lớp
viết văn khoá 5 do Hội nhà văn mở tại Quảng Bá, Hà Nội. Cái tên cha mẹ
đặt cho anh là Đặng Đức Cảnh. Làm thơ anh lấy bút danh là Cảnh Trà, và
bây giờ chỉ người nhà mới gọi tên thật của anh, còn bạn bè nhất là những
bạn văn, bạn thơ đều gọi anh bằng cái tên Cảnh Trà. Không mấy ai biết
Trà là tên một người bạn thân một thời với anh. Anh ghép tên mình và tên
bạn mà thành bút danh. Trà là bộ đội đặc công. Cho đến nay, chưa ai
biết người chiến sĩ đặc công ấy đã hy sinh ở đâu, nhưng cái tên của anh
đã cùng đi suốt đời thơ của Cảnh Trà. Mới hay cái nghĩa bạn bè nó sâu
đậm lắm lắm trong anh. Năm nay anh tròn 70 tuổi. Từ đầu năm tôi hứa sẽ
làm cho anh một tiệc mừng đại thọ, nhưng anh cứ chối đây đẩy. Tôi gặng:
không làm lớn đâu, vài xị rượu, với mấy anh em làm thơ, viết văn ở Tây
Ninh thôi. Anh có vẻ chịu. Nhưng đến lúc chợt nhớ ra thì đã qua ngày
sinh của anh cả tháng trời. Thì ra anh cố tình quên và cũng cố tình
không nhắc tôi. Ở Tây Ninh bây giờ chỉ có hai anh em là hội viên hội nhà
văn, thương nhau nhiều nên cứ muốn làm cho nhau đẹp lòng, thế mà tôi
quên mất. Thì thôi, xin bằng bài viết này mừng anh đại thọ và mong anh
khoẻ dài dài để mà buồn với thơ, hóm hỉnh và đằm thắm với thơ. Xin chép
lại nguyên một bài thơ của anh để ta hiểu vì sao đến bây giờ anh vẫn
hỏi: “ Thơ là cái gì”
DO THIÊN SỨ ĐỊNHNhững câu thơ hayỞ mãi trong lòngNhư những viên ngọc trai của tình người cô lạiCứ trong trẻo ánh trời sáng mãiSưởi cho ta ấm nóng nỗi đám mêMềm mại thế mà tột cùng vững trảiĐã có người thốt lên- Khi ngã xuống vịn câu thơ mà đứng dậy!Ơi những câu thơ hay không cũ bao giờ!Thơ với NgườiNgười với ThơCuộc hôn phối này do thiên sứ định!
Đúng
là Người với Thơ phải quyện chặt với nhau mới nên hồn thơ và người thơ.
Có lẽ vì thế mà Cảnh Trà vẫn cứ trẻ trung trong thơ cho đến lúc đã bảy
mươi tuổi tròn.
Viết nhân ngày sinh nhật nhà thơ Cảnh Trà 70 tuổi
N.Đ.T
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét