Soạn giả Thanh Hiền, tên thật là Đỗ Văn Trượng, tác giả bản vọng cổ nổi tiếng "Chuyến xe Tây Ninh", là nghệ nhân ưu tú, hội viên Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Tây Ninh đã về cõi vĩnh hằng lúc 7 giờ ngày 26-02-2020…
Trong suốt quá trình hoạt động văn học nghệ thuật, ngoài tài năng sáng tác, Thanh Hiền được thiên phú sở hữu ngón đờn kìm điêu luyện, có hồn cuốn hút người nghe. Cây đờn kìm đã theo ông suốt gần 70 năm từ tuổi thơ ở vùng quê Gia Lộc Trảng Bàng đến chiến khu, tại các sân khấu khi Đoàn ca múa nhạc lưu diễn đó đây đến các điểm dạy đờn trong tỉnh, hay tụ điểm sinh hoạt đờn ca tài tử cải lương tại nhà. Rất nhiều học trò muốn được thụ giáo ngón đờn kìm của ông và hầu như chưa trò nào qua được thầy Thanh Hiền. Anh cũng là người anh thân thương đã hỗ trợ, động viên tôi rất nhiều trong sáng tác văn học.
Năm 1993 Tỉnh ủy và UBND tỉnh chủ trương củng cố Ban thường trực Hội Văn học Nghệ thuật để chuẩn bị tổ chức Đại hội VHVT lần thứ I, lãnh đạo đã cử Ban thường trực lâm thời gồm 4 người: Trần Công Nứ (Chủ tịch), 2 phó chủ tịch là Đỗ Thanh Hiền và Nguyễn Tam Bạch (họa sĩ Ba Trắng) và La Ngạc Thụy làm Chánh văn phòng. Vậy là Ban thường trực thời đó đã ra đi vĩnh viễn, chỉ còn lại mình tôi đau đáu nhớ lại những kỷ niệm xưa. Riêng đối với anh Thanh Hiền mà tôi gọi là Anh Tư thân thương đã động viên tôi viết tập truyện vừa Bến Quê Hương xuất bản năm 2013, trong đó những bối cảnh chiến tranh đều do anh kể lại…
Có lẽ, hồi ức "Nỗi nhớ khôn nguôi" mà anh kể lại có thể nói là quảng thời gian đáng nhớ nhất của anh. Tôi xin post lên đây thay lời tri ân, người anh thân thương đáng kính..
Bây giờ, nội ô Tòa thánh Tây Ninh đã hơn 8 giờ.
Khoảng thời
gian này, ngày xưa nhà văn Nguyễn Quang Sáng cùng nhạc sĩ Hoàng Việt
…đã “lẹp xẹp” đạp lá vàng khô từ vuông lều “Gò mối bằng lăng” đến Trảng
Vuông, rồi vòng về phía trên căn lều ni – lông của chú Tư Siêng – Lưu
Hữu Phước để UTQ theo lời gọi của chú. Ban đầu tôi chẳng hiểu UTQ là gì?
Sau này mới biết là “mật lệnh” của việc “uống trà quạo” mà chú Tư
thường dùng để gọi cán bộ dưới quyền đến để bàn bạc và định hướng sáng
tác trong từng thời điểm chiến dịch và mỗi khi nhận ra “sự lơ là” với
thời sự chính trị của anh em văn nghệ sĩ.
Đây cũng là
phong cách làm việc của chú Tư, vì bên “chén trà quạu” không khí làm
việc bớt căng thẳng và việc tiếp thu cũng thoải mái hơn. Tôi nhớ thật
rõ, giai đoạn này anh Bảy Cò (tên thường gọi của nhạc sĩ Hoàng Việt)
đang nặng lòng với Sinfoni “Giao hưởng Cửu Long I và II” và nhà văn
Nguyễn Quang Sáng (theo anh tâm sự) thì đang gò lưng viết ngày đêm để
gấp rút hoàn thành tập truyện ngắn “Bông Cẩm Thạch”, nên việc hai anh
“bị UTQ” gọi đến để nhắc nhở lưu tâm đến thời sự hơn trong sáng tác của
mình. Thời điểm này, theo tin tức tình báo thì Mỹ đang chuẩn bị kế hoạch
càn quét diện rộng trên khắp địa bàn với tên gọi “trận càn Đông Dương”.
Và việc gì đến, nó đã đến …
Đó là vào chiều ngày 29 tháng 3 năm 1970 …
Trận càn
Đông Dương như những chiếc vòi bạch tuột đã vươn qua suối Mật Cật, tiến
tới cửa ngõ của Tiểu ban Văn nghệ R. Để bảo toàn lực lượng, nhất là đội
ngũ văn nghệ sĩ “những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa ấy”, cánh văn nghệ
sĩ trẻ chúng tôi đã nhận lệnh trước đó nhiều ngày đưa các “lão” văn
nghệ sĩ Thanh Nha, Phạm Ngọc Truyền, Ba Thanh Loan, Ba Thừa Vĩnh, nghệ
sĩ hài Quốc Hoà… về Cứ 2 của Ban, căn cứ đặt ở tận A Long Rết. Đêm dời
lên Cứ 2, trên đường “Sáu Cầu” mà tai cứ nghe tiếng bom nổ, mắt nhấp
nhánh giăng sao bởi những tia chớp lửa của bom B52 rải thảm bên căn cứ
cũ ở Suối Cây, Bàu Lùng Tung …
Đúng là việc gì đến đã đến thật!
Nhà văn
Nguyễn Quang Sáng mà chúng tôi thường gọi là anh Năm thân thương lúc nào
cũng lạc quan: “mày bom cứ bom, ta đi cứ đi”. Có lẽ nhờ vậy mà cánh văn
nghệ trẻ chúng tôi cũng “khinh thường cái chết’ thản nhiên “lưng bòng,
vai súng” đưa các “lão tướng văn nghệ” hành quân lên Cứ 2 một cách an
toàn. Thế nhưng, mới đến nơi chưa kịp ổn định “nơi nghỉ, chốn viết” thì
khu rừng “Gò Săng Ve”, dù đã tiếp cận giáp với phum Đôn Ca Đôn bên K
vắng vẻ, từ trước đến nay được coi là yên tỉnh, an toàn bậc nhất đã
không còn yên tĩnh nữa rồi. Không phải do đoàn văn nghệ chúng tôi đến
phá tan không khí yên lành vốn có nơi đây mà do tin dữ từ anh Ba Thạnh,
Trưởng ban tổ chức Tiểu ban báo cáo lại với đoàn từ bản tin của Đài kỹ
thuật báo về cho Ban Cứ 2: “ … Điểm khu vực Gò Săng Ve, từ 12 giờ ngày
01 tháng 4 năm 1970 – là tâm điểm không kích, kể cả pháo đài bay B52 …”.
Nghe tin, cánh trẻ chúng tôi không kềm được buông tiếng chửi: “Tổ cha
cái thằng Mỹ”. Vậy mà chị Năm Lê Giang lại cười híp mắt như “khoái” lắm
vậy, buông giọng rặt Nam bộ: “Gặp nữa rồi, Thanh Hiền ơi! Đi, đi nữa mầy
ơi…”.
Thay vì gấp
rút tiếp tục lên đường, nhưng chúng tôi lại ngồi phệt xuống, mở bình
ton nhẫn nha uống nước. Nhờ vậy mà cả đoàn bất ngờ gặp được Đội bảo vệ
và vị nữ tướng Nguyễn Thị Định cũng vừa hành quân tới. Cô Ba Định, chúng
tôi thường gọi vị nữ tướng duy nhất, nổi tiếng với nhiều huyền thoại ấy
với ba tiếng thận thương và kính trọng đó vẫy tay gọi chị Năm Lê Giang
đến dặn dò một số công việc rồi lại vội vả lên đường thẳng lên hướng Bà
Thét (Brathét), hướng từ Tây Ninh lên phía đông Campuchia..
Nhìn theo
đoàn xe đạp của cô Ba khuất hẳn vào rừng cây, chị Năm Lê Giang quay trở
lại. Chị lại cười híp mắt, cái miệng rộng huỵch, vui vẻ chành ra: “Cô Ba
nói, hai chiến đoàn tăng Mỹ ngụy đã càn đến khu Ka Rết và Mi Mốt rồi.
Cánh trái thì bọn Lonnon trước đây co cụm lại, giờ cũng bung ra. Vui
chữa! Giặc hai bên, ba phía kềm kẹp lại rồi … Mình đi nữa hén”. Chị Năm
Lê Giang vẫn thế, vẫn giọng điệu “lạc quan tếu” dù trong cảnh “dầu sôi
lửa bỏng”, phổ biến ngắn gọn, rồi lại cười. Bỗng chị nhìn quanh, rồi gọi
anh Ba Thạnh đến (cả hai người nằm trong cấp ủy của Tiểu ban văn nghệ,
lãnh đạo cao nhất trong thời điểm hiện tại) để bàn kế hoạch tiếp tục
hành quân theo chỉ thị của cô Ba Định.
Còn đang
hoạch định kế hoạch thì phía bên phum Đôn Ca Đôn có một số cán bộ K và
dân chúng chạy sang vì bọn lính Lon Non cũng động binh truy lùng ráo
riết cán bộ cách mạng K (Khmer Đỏ). Bất ngờ và cũng khéo làm sao tôi
được gặp lại cô nữ cán bộ thanh niên Chênh Tha. Kỷ niệm một thời với cô
gái Chăm trong quá trình công tác thanh niên bên nhau, cứ ngỡ đã chìm
trong góc khuất ký ức chợt hiện về. Chênh Tha đẹp mặn mà của cô gái hai
dòng máu Chăm và S’tiêng, với đôi mắt to, đen láy bên nụ cười mĩm, lẳng
lặng nhu mì. Nếu tôi không được Chênh Tha chăm sóc, có lẽ với căn bệnh
sốt rét ác tính đã vào giai đoạn cuối quật ngã khi tuổi đời tôi còn quá
trẻ. Căn bệnh quái ác đó không tha bất cứ ai thường xuyên luồn rừng, ngủ
võng. Tôi vướng bệnh trên đường di chuyển đến hồ Chí Phèn và mê man
nóng sốt, người đã gầy rọc, đi đứng phải có người dìu. Vậy mà với món
thuốc gia truyền toàn là rễ và lá cây rừng do cha nàng đào và hái mang
về đã cứu sống tôi. Thuốc do nàng sắc, cháo do nàng nấu, đi do nàng dìu
suốt một thời gian dài. Thế là phát sinh tình cảm trai gái luyến lưu.
Chính tôi, lúc bấy giờ cũng chưa xác định đó có phải là tình yêu hay
không? Nếu có thì cũng là mối tình câm do nhiều ngăn cách. Đặc biệt là
rào cản giữa hai dân tộc khó mà hòa hợp nhau, nhất là trong giai đoạn
cách mạng đang gặp nhiều khó khăn do Mỹ ngụy cứ liên tục tổ chức hết
chiến dịch này sang trận càn khác nhằm truy quét lực lượng cách mạng
ngày càng lớn mạnh mà Tây Ninh là căn cứ địa quan trọng trong suốt quá
trình kháng chiến. Giữa ta và bạn luôn hợp rồi tan, vì mỗi bên đều có
nhiệm vụ riêng. Do vậy khi chia tay kỷ niệm đó cũng dễ chìm vào ký ức.
Gìơ gặp lại nhau chúng tôi rất vui mừng nhưng chỉ biểu lộ qua ánh mắt và
nụ cười. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép chúng tôi đủ thời gian để ở
bên nhau hàn huyên tâm sự, vì phải gấp rút hành quân. Dù cùng nhau ngược
lên hướng Tây Bắc, từ Đầm Be hành quân thẳng qua Đôn Cà Đôn (Phum Dừa),
nhưng ai cũng có nhiệm vụ của riêng mình, nên ngậm ngùi tách nhau.
Trong sổ tay nghệ thuật tôi còn ghi:
“… Ơi Chênh Tha, có đôi cánh vàng anh,
Chim vàng anh sà xuống sàn gác nhà xưa – trước sân sứ trắng.
Nắng Chùa Tháp nắng tươi – đượm nồng hương nắng …
Rồi mai đây,
Chênh Tha về nơi nào – trong gió, trong mưa!”
Chim vàng anh sà xuống sàn gác nhà xưa – trước sân sứ trắng.
Nắng Chùa Tháp nắng tươi – đượm nồng hương nắng …
Rồi mai đây,
Chênh Tha về nơi nào – trong gió, trong mưa!”
Dù chỉ gặp
nhau trong thoáng chốc đã phải chia tay, không hiểu tâm tình của Chênh
Tha thế nào? Riêng tôi vẫn tin tưởng và thắm thiết ghi rằng:
“… Anh vững tin một ngày không xa,
Anh sẽ kết “sứ trắng” trên chiếc thuyền hoa,
Mà đưa chung thuỷ, cùng Chênh Tha theo về!”
Anh sẽ kết “sứ trắng” trên chiếc thuyền hoa,
Mà đưa chung thuỷ, cùng Chênh Tha theo về!”
Cho tới bây
giờ … tôi vẫn thầm lặng … sống thì nhớ, có chết mang theo hình ảnh
Chênh Tha với chiếc áo cộc tay đen, xà rông đậm màu, đứng yên cười lặng
lẽ, nhìn theo cho tới khi chúng tôi khuất bóng. Và hình ảnh ấy đã đi vào
bản vọng cổ “Nàng Chênh Tha” tha thiết do tôi sáng tác phát trên sóng
của Đài Tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh năm 1979.
Trong đoàn,
sức khoẻ của anh Năm Nguyễn Quang Sáng có lẽ yếu nhất. Không hiểu anh
bị bệnh gì, nhưng sau khi ra viện, tóc giữa đỉnh đầu của anh bạc trắng
và dáng đi của anh cứ “lệ xệ”, nên cánh trẻ chúng tôi phải thay phiên
nhau đỡ đần cho anh cái ruột tượng gạo, cái bồng chứa đầy bản thảo cùng
tăng võng, để anh cùng “tụi bây tới đâu tao tới đó”.
“Ai nghe trên đường Thiên Lý,
Dưới nắng ngày – rồi trong mưa đêm!
Bước chân không hề ngơi nghỉ …
Của bao người chiến sĩ giao liên…”
Dưới nắng ngày – rồi trong mưa đêm!
Bước chân không hề ngơi nghỉ …
Của bao người chiến sĩ giao liên…”
Cánh quân
văn nghệ sĩ thuộc Tiểu ban Văn nghệ Trung ương cục gồng gánh nhau tiếp
tục lên đường. Gió thu vẫn lảng đảng lay nhẹ cành lá, lả tả lượn lờ như
hướng dẫn bước đi.
Con đường
từ Đầm Be đến hồ Chí Phèn, mà cánh trẻ chúng tôi gọi thành hồ “Chí
Phèo”, phải qua phum Cà Đôn. Nơi đây bà con dân tộc Khmer trồng dừa
nhiều hơn cây thốt nốt truyền thống nên còn gọi là Phum Dừa. Qua phum
Dừa chạm ngay ngã ba Brathét (Bà Thiết). Thời điểm này, trận càn Đông
Dương của Mỹ đã mở rộng lên phía Tây Bắc. Hai chiến đoàn tăng pháo Mỹ
nguỵ giăng ngang tuyến đường từ Karết ngược lên Phố, rồi xẻ dọc sang
Brathét, quân rải dài đến gần Thị trấn Suông Chúp. Lực lượng chúng hung
hậu, trang bị vũ khí tối tân, khí thế thật hung hăng. Thế nhưng khi đổ
quân đến đâu thì chúng “co cụm” lại. Nắm bắt được thế trận tuy dàn trải
nhưng “co cụm” tạo nhiều khoảng hở, nên đoàn văn nghệ sĩ được lệnh phân
tán mỏng, chờ đêm xuống len lỏi qua các khoảng hở đó. Do phải phân tán
mỏng, đoàn quân trở nên dài “lê thê”, dù chẳng có bao nhiêu quân số, cắt
đường xuyên lên rừng Giá Tỵ, hướng về Bàu Sỏi, Wát Thơ Mây … suốt cả
đêm, đến 9 giờ hôm sau mới thoát ra khỏi vùng đóng quân của địch. Tưởng
đã thóat ra khỏi vùng nguy hiểm, “đoàn quân lê thê” chưa kịp tập trung
lại, bụng đói meo, thì nhận được tin địch đã phát hiện và xe tăng địch
đã mở mủi đuổi theo.
Mẩu tin
thật ngắn gọn và bay cũng thật nhanh từ cuối đoàn quân đến chị Năm Lê
Giang đang dẫn dầu đoàn quân. Chị Năm chưa kịp ra chỉ thị thì cánh nhà
văn Lê Văn Thảo và Nguyễn Chí Hiếu khẩn trương đến báo:
– Anh Năm Nguyễn Quang Sáng yếu lắm rồi, nếu hành quân hoả tốc, e anh Năm chịu không nổi. Chúng ta tìm cách “võng” ảnh thôi.
Bàn bạc và cử người phụ trách xong, anh Năm biết được nhất định không chịu để anh em võng đi. Anh cố lạc quan tếu:
.- Chưa hơn
Trường Sơn đâu! Tao còn đi được. Tụi bây cứ lo ruột tượng gạo và bồng
bị nè … Tao chỉ cần cây gậy này, bây đến đâu tao theo kịp đến đó. Đừng
lo.
Rồi anh
nhìn chị Năm Lê Giang, đôi mắt hướng về nhạc sĩ Lư Nhất Vũ. Chúng tôi
hiểu ý, không nên để chị bận tâm nhiều đến anh em, chị đang “bận bịu”
với “ông tướng ròm họ Lư” này, cũng đang là bệnh nhân cần sự chăm sóc
đặc biệt của chị.
Tính nhà
văn Nguyễn Quang Sáng là vậy đó. Khi chưa thật sự ngã quị, anh không cần
bất cứ sự dìu đở nào. Chẳng những vậy, anh còn lo cho người khác, đặc
biệt là đối với nhạc sĩ Lư Nhất Vũ.
Đoàn vượt
qua cánh đồng Bàu Sỏi. Nhìn lại phía sau vẫn còn người thấp thoáng dưới
ánh nắng chiều đỏ chói. Bỗng nghe tiếng súng nổ rộ lên phía cuối đoàn
quân. Đoàn khẩn trương cố vượt qua khỏi cánh đồng trống trải, vừa cặp
sát cánh rừng Cù Đèn thì trinh sát Mặt trận tới báo tin và thúc hối:
– Cố gắng lên các anh chị ơi! Cố gắng đi nhanh hơn nữa. Phải đến nơi an toàn trước khi đêm xuống.
Dù thúc hối
nhưng giọng các anh thật vui, phấn khởi. Bởi lẽ Ban Bảo vệ căn cứ Trung
ương cục gồm C100, C81 …phối hợp với một bộ phận Công trường 9 (CT9)
đánh tan tác hơn 60 xe bọc thép M118 và M113 của chốt Karết nống lên
chốt chặn. Tin cũng cho biết, chiều và đêm nay tất cả đều phải đặt trong
tình trạng cảnh giác, bằng mọi cách để phòng ngừa phi pháo địch. Phi
pháo địch nói gọn là thế, nhưng đoàn văn nghệ sĩ chúng tôi đều hiểu là
trận địa pháo bầy và máy bay đánh bom rải xung quanh nơi chúng đang “co
cụm” để bảo vệ trận địa chốt chặn của bọn chúng. Do vậy các cánh quân
nào đang ở gần trận địa đó phải cấp tốc bằng mọi cách di chuyển càng xa
càng tốt trước khi màn đêm buông xuống. Nếu như thế thì thật khó cho
“đoàn quân dài lê thê” này. Bởi đầu đoàn thì thì an toàn, nhưng cuối
đoàn thì đang nằm trong khu vực phi pháo địch sẽ dập bất cứ lúc nào.
Lệnh truyền từ chị Năm Lê Giang xuống cuối đoàn: Người khoẻ “võng” người
yếu cấp tốc băng đồng hội quân tại bìa rừng. Không hiểu do tin vui từ
anh em trinh sát mang đến hay do lệnh khẩn cấp mà sức khoẻ của đoàn quân
như tăng lên, kịp hội quân khi màn đêm vừa buông xuống và tiếng phi
pháo địch bắt đầu rền vang, nhoáng nhoàng tia chớp phía sau lưng.
Dù đã thoát
ra khỏi tầm phi pháo, nhưng đoàn văn nghệ sĩ vẫn khẩn trương tiếp tục
hành quân hướng lên mục tiêu Wat Thơ Mây. Nơi đây Huyện bạn đã bố trí
tiếp đoàn tại khu chợ nhỏ. Wat Thơ Mây có nghĩa là Chùa Mới cũng là cái
tên kinh hoàng cho quân Mỹ nguỵ hơn hai năm sau đó.
Đó là những
ngày tháng 3 năm 1970 với Chiến dịch “Tìm Diệt”, các chiến đoàn tăng
của Tổng trừ bị Phủ Tổng thống do tướng Đỗ Cao Trí điều binh phối thuộc
với sư đoàn 18 của tướng Nguyễn Văn Minh đáng thốc lên nhằm xoá sổ “Đầu
não Việt Cộng” đang đóng quân phía đông chiến trường Kampuchia. Chúng
không ngờ, tại đây chúng bị đánh tan tác, tướng Đỗ Cao Trí chết thảm khi
máy bay bị trúng đạn nổ tung khi vừa đáp xuống sân bay Tây Ninh gần sát
dinh Tỉnh trưởng chỉ vài trăm mét.
Wat Thơ Mây
– cái tên gợi nhớ đến con đường sỏi đỏ, đổ truông dài len lỏi giữa rừng
le xanh thẳm bạt ngàn với những cụm bằng lăng cố vươn lên đón ánh mặt
trời để khoe những chùm hoa tím ngát. Muốn ngắm hoa phải ngước cổ lên
nhìn. Thỉnh thoảng nghe mấy chú chim hồng hoàng, cao các đậu chót vót
cành cao trổ giọng “tố rô, tố rô” gọi bầy. Chúng càng “tố rô” tôi càng
nhớ vùng rừng bao bọc Trảng Tà Xia, Lò Gò…; bấy nhiêu. Sao bây giờ nhớ
Tây Ninh quá vậy, dù chỉ xa nơi đó không bao nhiêu ngày. Tình quê hương,
đất nước càng dậy lên và theo tôi suốt mấy năm đầu kháng chiến (1959 –
1960). Sổ tay tôi còn ghi:
Ly hương – Ly hương đường kháng chiến
Nghe hồng hoàng “tố rô” chạnh nhớ Tây Ninh.
Nghe hồng hoàng “tố rô” chạnh nhớ Tây Ninh.
Cuối cùng,
Đoàn quân văn nghệ sĩ thuộc Tiểu ban Văn nghệ R cũng đến căn cứ mới. Gọi
là căn cứ nhưng chỉ là cánh rừng nằm cách hồ Chí Phèo hai ngày đường,
chẳng có hầm hào trú ẩn, thậm chí chưa có chòi trại nào khả dĩ che bớt
sương gió cho những người đang ốm đau. Ngày đầu tiên đến cứ đoàn quân
mệt lả, chỉ còn sức tìm nhánh cây khô đốt lửa suởi ấm và “võng giá ni
long” treo ngã lưng qua đêm, cùng nhau nghe tiếng gió xao động cành lá
cây rừng, nghe cả tiếng chân cọp đuổi bắt nai, nai phóng ào qua mấy cánh
võng ni – long của anh Lư Nhất Vũ, chị Lê Giang, Phạm Minh Tuấn, Hồ Thị
Cúc… khiến họ giật mình kêu thét: “cứu, cứu” và cả đoàn bật dậy súng
trên tay lên đạn căng mắt trong tư thế sẵn sang chiến đấu với … thú
rừng. Chỉ tội Tổ bảo vệ phải chong mắt suốt đêm để ngăn ngừa sự cố.
Để dễ hình
dung, con đường từ căn cứ cũ đến cứ mới, là con đường nối các địa danh
từ Đầm Be, Dung Rạng, Rừng Tre, thị trấn Chơ Long, đầm Phơ Lây Phông,
Rừng Dương, thị xã Krachíe (Cần Ché)… thuộc Đông Bắc Kampuchia. Hồ Chí
Phèn nằm chếch về phía trái Đầm Be. Nếu cắt rừng thì đi qua suối Lồ Ô,
ra xóm Chàm là đến cửa ngõ đầm hồ Chí Phèn. Mặt đầm rất rộng, nướcdưới
hồ trong veo. Lúc nào cũng đầy sóng gió và xuồng câu, xuồng giăng lưới…
của hơn bốn mươi gia đình bà con Việt Kiều lâu đời sống quanh hồ. Con
đường này cũng chính là con đường ‘TIẾP PHẨM” của bà con Việt Kiều cho
cách mạng. Đoàn văn nghệ sĩ đóng quân nơi đây nếu không có tấm lòng và
sự hy sinh của họ đóng góp lương thực thực phẩm thì đoàn quân chỉ biết
viết lách và đàn hát này dựa vào đâu để sống trong những ngày tháng mới
chuyển về căn cứ mới chưa kịp sản xuất tăng gia? Thế mới hiểu được tấm
lòng của những người dân xa quê luôn hướng về cách mạng với niềm tin sắt
đá: đất nước sẽ được độc lập, tự do. Cũng chính từ những tấm lòng đó đã
thúc đẩy chúng tôi sáng tác hăng say hơn, để có những tác phẩm văn học
nghệ thuật góp phần động viên bộ đội ta chiến đấu quên mình cho đến ngày
thắng lợi hoàn toàn. Xin ghi nhận những tấm lòng của gia đình anh Hai
Tánh, chị Hai Liễu, chú Sáu Có, chú Ba Gió… và bà con sống quanh hồ.
Hồ Chí Phèn với sóng nước mênh mang, cá tôm đầy rẫy cùng với tấm lòng của bà con Việt Kiều một lòng với cách mạng. Cũng chính nơi này là nơi an dưỡng cho các văn nghệ sĩ yếu sức sau những tháng ngày chịu đựng gian lao, lâm bệnh như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ … và cũng là nơi sáng tác lý tưởng cho những văn nghệ sĩ cần thời gian và yên tĩnh để hoàn thành tác phẩm. Nơi đây, thời đó (1970 – 1971) đón tiếp hầu như đầy đủ “anh tài” của Tiểu ban văn nghệ R, kể cả nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhà văn Anh Đức, nhà văn Trang Thế Hy, hoạ sĩ Nguyễn Văn Kính…
Suốt những ngày tháng đóng quân ở căn cứ mới, không hiểu đối với văn nghệ sĩ thời đó, bây giờ ai quên, ai nhớ. Riêng tôi thì cho đến nay vẫn đầy ắp kỷ niệm. Bởi lẽ, hầu như tuần nào tôi cũng “cuốc bộ” ra Đầm hồ. Nếu không cùng đi với hoạ sĩ Nguyễn Chí Hiếu (hiện nay là Tổng biên tập Báo Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh) thì cũng đi với chú Ba Thanh Nha… Ra Đầm hồ để thăm các anh chị em văn nghệ sĩ yếu sức nghỉ dưỡng và cũng để chứng kiến cảnh các anh, chị lao động sáng tạo thế nào nhằm học hỏi thêm kinh nghiệm. Nhớ nhất là đợt học tập Nghị quyết về Miền Nam dành cho cán bộ trung cao và văn nghệ sĩ do chú Hai Trinh và chú Năm Trần Bạch Đằng trực tiếp triển khai, quán triệt. Nhờ vậy mà tôi gặp gỡ hầu hết cán bộ cấp cao của cách mạng và văn nghệ sĩ về học Nghị quyết đợt này. Đó là những ngày cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1971. Sau này, mỗi lần gặp lại nhau ai cũng nhắc lại kỷ niệm với niềm cảm xúc, ghi nhớ công ơn của bà con Việt Kiều đã giúp đỡ cách mạng trong những giai đoạn khó khăn.
Hồ Chí Phèn với sóng nước mênh mang, cá tôm đầy rẫy cùng với tấm lòng của bà con Việt Kiều một lòng với cách mạng. Cũng chính nơi này là nơi an dưỡng cho các văn nghệ sĩ yếu sức sau những tháng ngày chịu đựng gian lao, lâm bệnh như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ … và cũng là nơi sáng tác lý tưởng cho những văn nghệ sĩ cần thời gian và yên tĩnh để hoàn thành tác phẩm. Nơi đây, thời đó (1970 – 1971) đón tiếp hầu như đầy đủ “anh tài” của Tiểu ban văn nghệ R, kể cả nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nhà văn Anh Đức, nhà văn Trang Thế Hy, hoạ sĩ Nguyễn Văn Kính…
Suốt những ngày tháng đóng quân ở căn cứ mới, không hiểu đối với văn nghệ sĩ thời đó, bây giờ ai quên, ai nhớ. Riêng tôi thì cho đến nay vẫn đầy ắp kỷ niệm. Bởi lẽ, hầu như tuần nào tôi cũng “cuốc bộ” ra Đầm hồ. Nếu không cùng đi với hoạ sĩ Nguyễn Chí Hiếu (hiện nay là Tổng biên tập Báo Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh) thì cũng đi với chú Ba Thanh Nha… Ra Đầm hồ để thăm các anh chị em văn nghệ sĩ yếu sức nghỉ dưỡng và cũng để chứng kiến cảnh các anh, chị lao động sáng tạo thế nào nhằm học hỏi thêm kinh nghiệm. Nhớ nhất là đợt học tập Nghị quyết về Miền Nam dành cho cán bộ trung cao và văn nghệ sĩ do chú Hai Trinh và chú Năm Trần Bạch Đằng trực tiếp triển khai, quán triệt. Nhờ vậy mà tôi gặp gỡ hầu hết cán bộ cấp cao của cách mạng và văn nghệ sĩ về học Nghị quyết đợt này. Đó là những ngày cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1971. Sau này, mỗi lần gặp lại nhau ai cũng nhắc lại kỷ niệm với niềm cảm xúc, ghi nhớ công ơn của bà con Việt Kiều đã giúp đỡ cách mạng trong những giai đoạn khó khăn.
Và có lẽ
nhớ nhất là câu nói của anh Năm Nguyễn Quang Sáng mà tôi đã khắcghi vào
ký ức từ ngày mãn khoá học, trướckhi chia tay anh trở về hồ Chí Phèn:
“Chưa học thấy rãnh rời, học rồi thấy công việc bằng trời, đầu óc tay chân nào viết cho kịp đây!”.
Những ngày cuối tháng 12 năm 2009.
Viết lại La Ngạc Thụy
Viết lại La Ngạc Thụy
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét