Vũ Thiện Khái quê ở tận Ninh Bình vào Tây
Ninh lập nghiệp từ những năm 90 của thế kỷ trước. Trong một dịp đến Tân
Châu dự buổi ra mắt Câu lạc bộ Thơ huyện Tân Châu mới phát hiện ông và
nhà thơ Lê Trí Viễn là hai cây bút kỳ cựu ở quê nhà, đã khẳng định được
năng lực sáng tác, có nhiều tác phẩm văn thơ đăng trên các báo văn nghệ
phía Bắc.
Vào Tây Ninh do mưu sinh nên ông hầu như quên hẳn công việc
sáng tạo. Mãi đến năm 2010 tôi mới phát hiện và động viên ông gia nhập
Hội VHNT Tây Ninh , từ đó ông mới sáng tác trở lại và bút lực thật sung
mãn. Năm 2014, ông đã tập hợp những tác phẩm sáng tác trong những năm
qua và tự bỏ kinh phí xuất bản liền 2 tập truyện ngắn thật đầy đặn; Đất
Thiêng và Thao Thức Sông Quê. Tập truyện ngắn Thao Thức Sông Quê tạo
được tiếng vang trên diễn đàn văn nghệ cả nước, được Hội VHNT Tây Ninh
giới thiệu và Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao giải
Khuyến khích năm 2015 vừa qua. Và cũng trong năm 2015 nhà văn Vũ Thiện
Khái được Hội VHNT Tây Ninh hỗ trợ kinh phí xuất bản tập thơ Hương Hoa
Mộc.
Nhận định về Vũ Thiện Khái, nhà văn Trần Hoàng vy đã viết: Hai
tập truyện ngắn của nhà văn Vũ Thiện Khái là sự thể hiện những công
việc của thiên chức nhà văn, tâm trạng và những vất vả của đời người,
đôi chỗ, lời văn cũng có lúc thô mộc, phải gia công đục đẽo, song ông đã
từ những “hiện thực” của cuộc đời mình mà dồn mọi nỗ lực tâm huyết cho
ra đời cùng lúc hai tác phẩm đầu tay quả là một việc làm rất trân trọng
và đáng quí…
Nhà thơ Đỗ Xuân Thu cũng cảm nhận: Điều
đáng nói nữa trong truyện ngắn Vũ Thiện Khái đó là sự kết hợp huyền ảo
với cõi thực. Ông đưa người đọc vào những câu chuyện ma mị, huyền bí để
rồi từ khung cảnh ấy đánh thức hoài niệm, thức tỉnh nhân tâm, trò chuyện
với quá khứ để khẳng định hiện tại, vươn tới tương lai. Đọc những đoạn
văn này, tôi như bị mê hoặc. Ông tả cảnh, tả người, tả việc rất tài
tình. Cứ sắc sắc không không. Cứ hư hư thực thực.
Nhà văn Bùi Hằng cũng có nhận xét về Vũ Thiện Khái: Có
một điều dễ nhận thấy ở các truyện ngắn của Vũ Thiện Khái là ông xây
dựng nhân vật của mình là những con người xa xứ, tâm luôn hướng về quê,
bằng cách này hay cách khác, giữa cõi hư và cõi thực, giữa cái sắc sắc
và cái không không. Cốt lõi của chủ đề tư tưởng vẫn nằm ở nỗi day dứt
quê hương. .. Giá trị nhân văn của tác phẩm nằm ở đó. Chỉ đơn giản thế
thôi nhưng Vũ Thiện Khái đã với tới được cái tầm, cái sức nặng của một
truyện ngắn.
Tác phẩm tiêu biểu:
ĐẤT THIÊNG
Truyện ngắn: Vũ Thiện Khái
Đoàn xe thành phố Hồ Chí Minh chở dân đi khai hoang đợt đầu,
trong đó có gia đình Hai Huân. Tới ngã tư giữa rừng thì dừng lại. Lúc ấy
đã xế chiều. Một thông báo ngắn gọn phát ra: Đến quê hương mới rồi bà
con ơi! Xin mau xuống để xe còn về kịp sáng mai chở chuyến tiếp theo.
Suốt hành trình, bà má Hai Huân tuổi đã ngoài sáu chục bị say xe mặt
mày xanh lét ngồi gục đầu vào lưng con dâu. Hai Huân cũng trong trạng
thái lử lả gật gật gà gà. Chợt mấy cú đập cửa thình thình. Choàng tỉnh,
anh vội xốc nách bế bổng bà má đang rũ rượi như tầu cải muối rồi thập
thễnh xuống xe. Ngó lên trời vần vụ mây đen, nhìn sang bên vệ đuờng,
thấy căn nhà vách đất, mái tranh mới lợp vàng ươm bỏ không, anh quyết
định thập thễnh bước vào. Để má nằm tạm trên tấm rải giường ghép bằng
những thân cây le còn xanh rói. Thấy yên yên, anh trở ra cùng vợ và
thằng con lôi được chiếc rương và lỉnh kỉnh mấy bao đồ nhật dụng từ nóc
xe xuống thì trời đổ trận mưa rào như trút nước. Nhắm chừng còn mưa dai,
ông trưởng ban điều hành lệnh cả đoàn gồng gánh lên vai hành quân theo
ông nhận nhà. Đến chỗ Hai Huân, nhìn bà cụ cong lưng nôn thốc tháo mật
xanh mật vàng, lại còn một đống đồ đạc đã bị ướt sũng, lại thấy Hai Huân
chân cẳng khập khễnh, ái ngại, ông mắm môi hạ một lệnh mồm: Thôi giao
cho vợ chồng anh căn nhà này. Hai Huân vâng dạ cám ơn rối rít. Người bạn
thân cùng nghề xe ba gác cùng phố rỉ tai: Mày ngu bỏ mẹ, ở giữa ngã ba
trống trải thế này, lính Pôn – pốt nó tập kích có mà chết đầu nước. Chả
biết có linh tính nào mách bảo, Hai Huân đáp gọn lỏn: Ông tưởng chết dễ
vậy sao? Anh ta xì một tiếng rõ dài rồi lập cập bỏ đi. Lại còn ngoái cổ
chửi gọn lỏn một câu xanh rờn: Đồ ngu khó dạy!
Gần hai chục năm sau, nơi này thành thị trấn, thành trung tâm
kinh tế chính trị cấp huyện. Ngã tư đường rừng xưa thành trung tâm phố
huyện đèn điện sáng suốt đêm. Góc đối diện nhà Hai Huân xây khu thương
mại dịch vụ qui mô một nhà lồng chợ mênh mông chứa mấy trăm hộ tiểu
thương. Chẫm sáng chẫm tối người đông nghìn nghịt. Hai góc còn lại huyện
thu hồi đất để lập mấy tòa công sở cao ngất. Thửa vườn góc ngã tư của
Hai Huân và các hộ mặt tiền dọc đường được giữ nguyên vẹn khu dân cư.
Không ít người xuýt xoa tiếc ngùi ngụi, sao hồi ấy mình không nhanh chân
xí phần cái căn nhà đầu lô ấy nhỉ. Đã quen túc tắc sống cầm chừng thời
bao cấp, mấy năm đầu chuyển sang cung cách kinh tế thị trường, ai nấy
đều luật quật đuổi theo những đổi thay chóng mặt. Các hộ có đất cạnh
đường như Hai Huân đua nhau chia ra từng miếng đủ xây một căn nhà phố
rồi đánh tiếng mua mua bán bán, đổi chiều ngang đất lấy chiều cao những
ngôi nhà lầu. Người bạn năm nọ chê ông ngu bỏ mẹ giờ cười hề hề: Hai
Huân hóa Hai Hên rồi. Ngồi dạng dái đếm vàng bỏ két, sướng nhá! Đáp lại
Hai Hên cũng hề hề cười, chẳng ra vui, chẳng ra buồn. Mười năm sau nữa
cái làng kinh tế mới xưa chẳng còn tí dấu vết nào. Hai bên đường, bốn
bên ngã tư lên lầu lên phố rần rần, nhà nhà mở cửa hàng cửa hiệu buôn
bán thu lời như nước. Riêng khu vườn của Hai Huân hai mặt tiền vuông góc
áp hai con phố chính vẫn y sì xanh rờn cây trái tỏa bóng mát che căn
nhà ba gian mái thiếc cũ xì rỉ sét. Bao nhiêu người thèm nhỏ dãi thế đất
đẻ ra vàng ấy, cậy cục, van nài, ép buộc, Hai Huân vẫn kiên định lập
trường không bán. Bây giờ thì trong mắt mọi người, Hai Hên lại hoá ra
Hai Hâm tỉ độ. Thâm tâm Hai Huân cũng buồn vì cái tiếng hâm ấy chứ. Cũng
muốn bộc bạch nỗi niềm sâu kín vì sao mình muốn giữ cho miếng đất này
thanh sạch y như nó từng thanh khiết và đang thanh khiết như xưa rày vốn
vậy. Nhưng hễ sắp mở lời thì trước mặt ông toàn trô trố những con mắt
thèm thuồng, châu chẩu những cái mồm mở ra là tiền, là vàng, là lời lỗ.
Ông thấy bọn họ không xứng được chia sẻ những tâm sự lâu nay ông thành
kính ấp ủ trong lòng. Bởi vì cái miếng đất ấy gần bốn chục năm rồi cả
gia đình ông đã yên hàn sinh cơ lập nghiệp, ăn ngủ ở đấy, hít thở không
khí thanh khiết bao trùm trên ấy, con cái ông nên người tử tế cũng bước
ra đời từ đấy. Với ông nó là một cõi đất thiêng phải bảo vệ, phải giữ
gìn để không một ai, không một thứ gì có thể bôi bẩn được.
Ba mất sớm, má Hai Huân một nách con thơ, một nách khi rổ
bánh bèo, khi giỏ bánh ú bán dạo khắp hang cùng ngõ hẻm Sài gòn. Lên năm
tuổi, Hai Huân bị một cơn sốt tưởng chết. Sống được nhưng teo một bắp
chân. Từ đấy mỗi bước đi của anh thập thà thập thễnh. Khiếm khuyết tí
chút vậy thôi, các phần khác của cơ thể anh phát triển tuyệt vời. Người
cứ chắc như nắm cơm. Bảy tám tuổi anh đã có thể xay bột hì hụi cả ngày
phụ má làm bánh. Mười mấy tuổi đủ sức đạp xe ba gác chở thuê trăm thứ bà
rằn cho hàng phố. Rồi anh lấy được vợ. Vợ anh hoàn cảnh cũng như anh,
áo ngắn đùm áo rách, như má anh, cũng đòn gánh trên vai buôn thúng bán
bưng đầu hẻm cuối phố đủ loại tầm tầm. Trước Sài Gòn giải phóng một năm,
thằng Hân con anh chưa đến tuổi bị bắt lính nhưng to xác, lực lưỡng.
Một lần vây ráp, nó bị hốt nhưng được thả nhờ một bên mắt bị tật đục lờ
như cùi nhãn. Vậy là cha con anh nhờ tàn tật mà thoát tội cầm cây súng
mà chẳng biết trước đầu ruồi là kẻ thù nào. Ngày thằng cháu mang về tấm
giấy chứng nhận miễn quân dịch, má Hai Huân mắt hấp háy cười nhưng dấp
dính đôi giọt lệ nói: Rõ khổ cái nhà này, bố què con chột. Vợ Hai Huân
cười thật tươi: Thế má không thấy nhà thím Tư bên cạnh sao, chồng tử
trận, con cũng vừa báo tử. Giờ ra vào thui thủi.
Mấy tháng đầu giải phóng, Sài Gòn thất nghiệp nhiều. Chính quyền phường
vận động dân đi kinh tế mới với nhiều ưu đãi. Hai Huân được cả nhà đồng
thuận liền hăng hái đăng ký một suất. Giao lại cho phường gian nhà rách
như tổ quạ anh chẳng tiếc. Nhưng ở xứ rừng hoang vu liệu nhà anh có khá
lên không thì anh có chút vương vấn hoang mang. Đêm đầu tiên nằm trong
căn nhà vách đất lạ lẫm, tứ bề kèn kẹt từng hồi tắc kè gọi nhau không
ngớt, lạ sao anh chẳng gợn chút lo lắng, bồn chồn. Cứ như là có người
mách bảo đấy là duyên phận, đấy là anh đang trở về nơi chốn của anh tự
thuở nảo nào. Đêm ấy, giữa tiếng mưa rì rầm không ngớt, không hẳn thức,
cũng không ra ngủ, anh mơ hồ nghe văng vẳng trong gió rừng ràn rạt lúc
xa, lúc rất gần những tiếng hô một, hai, ba, bốn… cùng nhiều bước chân
rầm rập chạy qua nhà. Đồ rằng có doanh trại bộ đội đóng ở gần đây. Gần
sáng anh lò dò sang bên kia đường ngồi chung bàn với mấy ông già đang
uống cà phê sớm. Trời còn sớm lắm, đêm rừng đen như mực. Quán tranh xập
xệ lèo tèo vài bộ bàn ghế ghép bằng tre thấp lè tè. Vài ngọn đèn hột vịt
le lói vài quầng vàng vọt. Sau mấy phút đôi hồi làm quen thăm hỏi xã
giao, anh hỏi về những tiếng hô trong mưa đêm qua, mấy ông chẳng tỏ chút
ngạc nhiên. Rồi một ông già nhất thủ thỉ: Chả có trại binh nào ở đây
đâu. Nhưng chúng tôi nghe thấy hoài hoài. Các anh em bộ đội âm binh đấy.
Ngã ba này hồi đó ác liệt lắm. Ta hy sinh cũng nhiều. Bên kia cũng chết
nhiều lắm. Thương lắm. Những đêm hôm mưa gió đều nghe rầm rập di chuyển
như vậy. Nhưng sáng ra tịnh không một bóng anh bộ đội nào. Đất này
thiêng lắm. Phía sau căn nhà anh vừa nhận ấy, cách khoảng dăm trăm mét
là trạm sơ phẫu tiền phương của quân giải phóng thời chiến đấy. Còn con
đường này hồi đó chỉ là lối mòn giao liên dẫn quân về Trung ương cục
đóng gần đây, độ chục cây số hà.
Vậy là dưới đất này chắc chắn còn nhiều hài cốt liệt sĩ. Loé trong đầu ý
ấy, khi quay về căn nhà mới, bất giác Hai Huân bước đi rón rén, chỉ sợ
mình sơ ý dẫm phải một thứ gì đấy rất linh thiêng đang nằm vùi trong cỏ.
Tờ mờ sáng Hai Huân đã một mình dạo quanh khu vườn vừa được
giao. Mấy gốc cây lớn còn nguyên một mẩu thân rỉ mủ nhô lên mặt đất nằm
rải rác lẫn với những ụ mối to như đống rơm. Đây đó những khóm le đâm
măng tua tủa. Chả hiểu sao giữa vườn còn duy nhất một cây khế rừng thân
to cả người ôm. Khắp cành la, cành bổng trái vàng âng ẩng treo núc nỉu.
Lẫn trong vòm lá, mấy chú chim nhí nhắt mổ những trái chín mọng. Mơ hồ
anh nghe tiếng khúc khích của nhiều cô con gái. Ngẩng đầu, nhiều đôi mắt
chim mở tròn, hó háy nhìn anh thân mật chẳng khác mắt người. Sẵn trong
tay cây rựa, anh phát quang cỏ dại quanh gốc cây, thầm nghĩ biết đâu hồi
ấy các cô giải phóng quân đã từng đến đây hái từng nón rồi cùng ăn ngon
lành, cùng cười khúc khích, cùng nao nao thương nhớ vị quê hương. Biết
đâu trong số ấy có người đang nằm lại nơi đây, hương hồn vẫn tìm về khúc
khích cùng nhau dưới bóng cổ thụ này. Một tuần sau, khi dọn cỏ tới cuối
vườn, hai cha con anh phát hiện một mô đất lùm lùm bề dài chừng hai
mét, bề rộng non một mét. Nhớ lời mấy ông già bữa nọ, nghi nghi là một
nấm mồ liệt sĩ, anh cùng con đào đất đắp lên vuông vắn. Ngay trưa ấy,
anh lập một bàn thờ thiêng trên đầu nấm đất rồi dâng hương hoa khấn vái
rằng nếu đây là nơi yên nghỉ của anh chị liệt sĩ nào thì xin báo mộng,
tôi sẽ bằng mọi cách liên lạc để hài cốt anh chị được về với cố hương.
Vái xong ba vái, anh thấy ba cây nhang loé sáng khác thường và ba đoạn
tàn hương uốn cong vòng tạo nên đoá hoa ba cánh. Từ đấy, mỗi tư rằm, đầu
tháng chưa bao giờ nhà anh quên hương hoa cúng vái.
Cuối năm ấy vợ Hai Huân sinh con gái. Lúc đứa con cất tiếng
khóc chào đời, trong đầu anh vừa loé lên cái tên Hồng Liên thì vợ anh
cũng khẽ bảo đặt tên con là Hồng Liên anh ạ. Ngày cháu Hồng Liên đầy
tháng trùng với ngày mồng hai tháng chín. Bà má anh giết gà, đồ xôi, ăn
mừng lễ Quốc khánh và cúng bà mụ cháu bé luôn thể. Tất nhiên bà cụ không
quên dâng lễ lên bàn thờ thiêng nơi cuối vườn. Buổi trưa hôm ấy, sẵn tí
rượu ngà ngà, Hai Huân vắt áo qua vai lâng lâng ra cổng, định làm một
ly cà phê cho thêm phần sung sướng. Đột nhiên một chiếc xe zeep quân sự
phanh kít giữa đường. Mở cửa xuống xe là một nữ chiến sĩ Giải phóng. Cô
vừa nở nụ cười tươi rói dưới vành nón tai bèo, vừa tiến đến nắm tay anh
thân mật như người quen lâu giờ gặp lại. Rồi kéo anh lên xe, nói đơn vị
trân trọng mời anh tới dự liên hoan. Anh lặng lẽ làm theo như cái máy.
Xe rồ ga lướt về phía rừng xa khoảng mươi phút thì dừng trước cổng doanh
trại. Trong sân đông đặc bộ đội đi đi lại lại. Chạy ùa ra ríu rít đón
anh khoảng hơn chục cô gái. Cô nào cũng đội nón tai bèo, chân đi dép râu
và vận quân phục màu xanh lá cây. Cô nào ánh mắt cũng sáng lấp lánh,
tóc dài đen nhánh nhưng màu sắc áo quần thì đều in dấu nắng mưa bợt bạc.
Hình như nhận ra từ anh cái nhìn đầy ái ngại xót xa cho đời lính gái,
một cô cứng tuổi hơn nói: Đã mấy năm rồi chúng em chưa được phát quân
trang. Phải thông cảm cho đất nước mình còn nghèo khó đủ bề anh ạ. Nói
rồi cả bọn kéo anh vào nhập tiệc. Tiệc đãi khách có thịt bò, thịt heo
đều chế biến theo kiểu Bắc. Bữa ấy các cô thay nhau mời anh uống rượu.
Vui quá, cảm động quá, chủ khách đều uống nhiều. Rồi các cô nghiêng ngả
hát, nghiêng ngả cười, nghiêng ngả ôm nhau khóc khiến anh cũng ầng ậng
hai hàng nước mắt. Trong lúc tâm thần chuếnh choáng, anh nghe loáng
thoáng các cô nói với nhau: Liệu anh ấy có nhận ra chúng mình hằng ngày
đến hái cây khế giữa vườn không nhỉ? Mà cái Liên phải chăm sóc anh ấy
nhiệt tình vào, căn nhà mày được ấm cúng là nhờ anh ấy đấy. Khoảng xế
chiều, các cô ríu rít tiễn anh lên xe, cô khóc, cô cười bịn rịn. Xe tới
cổng, cô Liên còn ngồi nán lại gục vào vai anh nức nở: Anh ơi! Em nhớ mẹ
em quá. Tròn mười năm rồi em chưa được về với mẹ. Đáp lại, anh chỉ biết
khóc cùng cô. Anh em quyến luyến chia tay. Liêu xiêu bước cao bước thấp
chưa tới cửa anh đã nghe cả nhà ồ lên: Tỉnh rồi! Tỉnh rồi! Tiếng má
anh: Cái thằng yếu gì đâu, mới vài ly đã say mê mệt suốt buổi. Mở mắt,
thấy mình đang nằm trên giường giữa vòng vây mấy người nhà và hàng xóm.
Định thần, anh chẳng nói lời nào, chỉ im lặng nghiền ngẫm cái bữa tiệc
lạ lùng vừa rồi.
Sáng hôm sau, anh lẳng lặng lên huyện đội báo cáo về nấm đất cuối vườn.
Cũng không quên kể lại câu chuyện hư hư thực thực chiều hôm trước.
Khoảng một tuần sau, một toán quy tập hài cốt liệt sĩ đến chỗ anh lập
bàn thờ. Họ đào sâu độ một mét thì chạm tấm tăng màu lá cây. Cẩn thận mở
ra, trong đấy còn nguyên vẹn bộ xương nhỏ nhắn. Phía trên đầu còn cả
một mái tóc dài đen óng ánh. Cạnh đấy vẫn nguyên xi hai chiếc bát xứ
lồng miệng vào nhau khít rịt. Mở bát thấy một tấm hình con gái lồng
trong túi nilon hiện lên đôi má bầu bầu, miệng nở cười tươi tắn hai hàm
răng đều như hạt bắp. Lạ kỳ, chỉ ít giây sau đó tấm hình chỉ còn là tấm
giấy trắng toát. Nhưng Hai Huân vẫn nhận ra đấy là cô bộ đội đã gục vào
vai anh nức nở nhớ mẹ già ngoài Bắc trong buổi chiều kỳ lạ ấy. Trong bát
còn vỏ một lọ thuốc péniciline chứa tờ giấy tuy đã nhoè nhưng vẫn đọc
được dòng chữ: Nguyễn Thị Hồng Liên quê quán… hy sinh ngày… Hài cốt liệt
sĩ Liên chuyển đi rồi, Hai Huân thấy trong lòng vô cùng trống trải,
ngẩn ngơ như mình vừa vĩnh viễn chia ly đứa em gái thân thương bé bỏng.
Ngay chiều ấy, anh gửi thư báo cho gia đình cô Liên ngoài Bắc. Lại bồn
chồn đón xe đến chân núi Bà đặt thợ đá làm một tấm bia khắc chữ: Nơi đây
từng là chỗ yên nghỉ của liệt sĩ Nguyễn Thị Hồng Liên, quê quán… hy
sinh ngày… Rồi chở về dựng trang trọng vào chính giữa chỗ đất anh em bộ
đội vừa khai quật. Vẫn chưa bằng lòng, cha con anh còn kỳ công kiếm mấy
cây dầu nhỏ đem về trồng bốn góc bia, thầm khấn chỗ đất này sẽ là nơi đi
về, trú ngụ của các linh hồn Liệt sĩ chưa có cơ hội về với lòng đất quê
nhà họ hằng nhớ thương mòn mỏi.
Chừng nửa tháng sau, người anh cả của liệt sĩ Hồng Liên bước xuống từ
chiếc xe U oắt đít bầu đậu trước nhà Hai Huân. Tận mắt chứng kiến tấm
lòng của cả nhà Hai Huân đối với em gái mình, ông để lại một tấm hình
của Hồng Liên cho Hai Huân đặt lên ban thờ. Ngủ lại một đêm anh em mở
lòng tâm sự, ông thấy mến thương Hai Huân như đứa em trai mình. Lúc chia
tay anh em thân thiết ôm nhau. Ông nói: Hồng Liên nó nhận chú là anh
trai nó rồi. Vậy chú cũng là em trai tôi. Mẹ tôi bao năm rồi mòn mỏi chờ
mong ngày này. Vài hôm nữa Liên về với mẹ tôi. Thay mặt gia đình, tôi
cám ơn chú nhiều lắm. Vốn vụng lời, Hai Huân chỉ biết nắm hai tay anh mà
khóc. Tháng sau nữa, đột nhiên Ủy ban huyện cho người về làm hồ sơ rồi
quyết định tuyển dụng thằng Hân vào làm chân văn thư chạy giấy. Từ đấy
con trai Hai Huân có lương tháng, lại thêm tiêu chuẩn gạo nữa, nhà Hai
Huân đỡ lo miếng ăn hằng ngày. Không hỏi nhưng Hai Huân thầm đoán ông
anh ngoài quê Bắc làm chức gì to lắm gửi gắm nên con anh mới mở mày mở
mặt được như vậy. Sau này, con gái Hồng Liên của anh học xong đại học,
nộp đơn xin việc vào một cơ quan phân bộ đóng ở thành phố Hồ Chí Minh
cũng được tuyển dụng ngay. Mấy tháng sau nó được ông trưởng phòng bảo
thứ trưởng H…hỏi thăm cháu đấy, Hai Huân mới biết ông anh kết nghĩa của
mình đương chức thứ trưởng bộ X.
Bây giờ thì Hai Huân già lụ khụ rồi. Mẹ ông rồi vợ ông đã lần lượt bỏ
ông quay về thiên cổ. Thằng Hân con ông đã có vợ. Vợ nó có sạp hàng bán
mỹ phẩm trong nhà lồng chợ. Công việc nội trợ chẳng bao giờ nó để mắt
tới, tối ngày chỉ lo bận bịu sơn xanh sơn đỏ móng tay, mí mắt. Sợ nhiều
con mau già, nó chỉ sinh cho ông một thằng cháu nội. Năm nay thằng bé
học lớp năm rồi. Hiện thời đôi mắt Hai Huân đã mờ, hai chân thập thễnh
hơn. Ngày hai buổi ông tha thẩn chống gậy quanh vườn quét dọn lá lảu và
lau chùi mấy tấm ghế đá ông đặt dưới gốc những cây dầu giờ đã là cổ thụ
xoè bóng che tấm bia ghi dấu chỗ xưa em gái Hồng Liên yên nghỉ. Mấy
chiếc ghế chả đêm nào vắng những cặp tình nhân rù rì tâm sự. Sáng sáng
thì các cụ già đến ngồi tắm nắng, gặp nhau trao đổi tâm tình. Cây khế
giữa vườn gốc to vượt người ôm. Quanh năm trái sai ríu rít. Rất nhiều
lần ông ngước nhìn lên bắt gặp những con chim quen thuộc năm xưa từng
ríu rít mổ mổ những trái khế chín vàng. Bây giờ từng đôi mắt chim vẫn mở
to tròn hó háy như mắt người. Nhưng vẻ tinh nghịch đi đâu mất cả. Có
hôm chúng xếp cánh đứng bên nhau thẫn thẫn thờ thờ. Lần nào ông cũng
nghe văng vẳng ai đó nhắc đến cô Liên lâu nay không thấy vào chơi. Lại
như có nhiều lời nỉ non gọi mẹ. Ông chỉ biết đứng ôm cây tu tu khóc. Mấy
người bắt gặp cảnh ấy, họ rỉ tai nhau lão Hai Huân già quá sinh ra dở
người rồi.
Đêm qua ông nghe tiếng vợ chồng thằng Hân cãi vã. Tiếng con vợ: Bảo với
ông chặt cây khế rồi xây căn nhà mở tiệm mỹ phẩm. Thời cơ hái ra vàng
mà không biết tận dụng. Thằng chồng dằn giọng: Cô im cái mồm đi! Động
đến cây khế là động đến sinh mệnh ba tôi đó. Con vợ nó xì một tiếng rõ
dài: Sắp xuống lỗ còn bo bo giữ của. Trưa nay thằng cháu ông đi học về
phụng phịu: Ông mua cho con chiếc xe đạp điện. Ông xoa đầu nó rù rì: Ông
làm gì có nhiều tiền vậy. Thằng cháu linh hoạt hẳn lên: Thì ông bán đi
một tí ti đất, mua được ối thứ. Má cháu bảo vậy.
Nghe cháu hồn nhiên mách nước, Hai Huân bần thần chống gậy ra vườn. Ông
đau đớn xoa xoa tấm bia đá, rân rấn hai dòng lệ ôm gốc cây khế già. Ông
biết ngày ông trở về với cõi mẹ ông, vợ ông và em Hồng Liên đang hiện
diện cũng sắp đến rồi.
Mảnh đất thiêng này rồi sẽ ra sao? Lo lắng bất an cả buổi chiều khiến
ông chẳng thể nào chợp mắt. Nửa đêm chợt nhớ chuyện mươi năm trước, một
tay ba tàu hay Đài Loan gì đấy nằm lì nhà ông cả ngày. Hắn lải nhải:
Mệnh của ngộ hợp với phong thủy thế đất lày lắm lớ. Nị phát giá lào ngộ
cũng ưng liền hà, tiền bạc không thành vấn lề. Ngộ mà mở được cái siêu
thị ở đây thì đại phát lớ, ngộ không quên nị đâu… Quá bực mình, ông bảo
hắn: Thì anh ra gốc cây khế khấn thần linh xem ngài có ưng không đã. Hắn
xăng xái ra vườn thắp hương cúng vái. Dăm phút sau đã mặt xám như chàm
quay về lắp bắp: Ngộ sợ lắm lồi, sợ lắm lồi. Miệng nói, tay hắn móc ra
nắm tiền nhờ ông mua con heo quay lễ tạ dùm. Rồi chuồn thẳng.
Vậy là ông biết chắc hùng khí các liệt sĩ vẫn muôn đời hiện hữu trên
mảnh đất thiêng này. Lạy trời, xin các anh em chỉ cho con cháu ông con
đường sáng.
Sáng hôm sau, không thấy ba dậy sớm như mọi ngày, thằng Hân đến chỗ
giường ông, thấy cha nằm duỗi thẳng hai chân, hai tay giao nhau chắp lên
giữa bụng. Cúi xuống thấp, nó nghe ngực ông không thở phập phồng. Xoè
bàn tay lên mặt cha, nó cảm giác như chạm vào luồng khí lạnh từ hai mắt
còn he hé mở và vầng trán trắng bợt cau cau mấy đường gân sóng. Nó vội
quỳ thụp xuống nghẹn ngào nức nở: Ba ơi! Xin ba cứ yên tâm, con còn sống
trên đời này thì không ai dám động đến cõi đất thiêng của gia đình ta
được. Mà còn cháu chắt ba nữa chứ. Xin ba hãy tin tưởng và yên lòng ra
đi.
Ngẩng lên nó ngạc nhiên thấy vừng trán ông giãn ra thanh thản và hai mi mắt khép kín tự lúc nào.
(trích trong Tuyển tập Văn Tây Ninh 40 năm)
SÔNG NGUỒN
Truyện ngắn: Vũ Thiện Khái
Chả nhớ ngày giỗ ông tôi năm ấy tôi lên mấy tuổi. Nghe bà nội
lẩm bẩm: Sống ở thác về, tôi hỏi bà: Ông nội con đã về đâu? Bà kéo tôi
vào lòng nói nhỏ như sợ người ta nghe thấy: Ông nội con giờ đang ở bên
Tây Trúc. Thế lúc ông về Tây Trúc con lớn bi nhiêu? Bà mắng yêu: Cha bố
anh! Lúc ấy anh đang ở mãi bên nước Nam Nứ. Tò mò tôi hỏi thêm: Nước Nam
Nứ ở đâu? Trầm ngâm một lát, bà hạ giọng: Ở xa lắm, tận ngoài cửa Đông
Hải lận, bà cũng chưa đến đấy bao giờ.
Bà tôi hồi đó đã ngoài bảy mươi, nhưng chưa hề lẫn cẫn tí nào. Đi lại
mới hơi chậm chạp kiểu người cao tuổi, còn những chuyện bà kể hằng ngày
thì rành rọt chẳng chê vào đâu được. Cái nước Nam Nứ ấy ở đâu? Mà nghe
có vẻ bí mật làm vậy. Từ buổi ấy đầu óc tôi đã mơ hồ một ý định lớn lên
sẽ đi đến tận cái nước xa xôi kia xem nó diệu kỳ tới mức nào. Đến năm
cuối trung học phổ thông, làm hồ sơ thi đại học, cha tôi bảo ghi quê
quán Ninh Bình. Không thêm một thông tin gì. Tôi lại nổi máu tò mò muốn
khám phá cái miền đất Ninh Bình ấy mặt mũi ra sao. Tôi căn vặn bà nội,
được bà đáp lào phào qua đôi môi nhăn nhúm: Quê cha đất tổ của nhà mình
mãi tận sông Nguồn ngoài Bắc. Xa lăng lắc, dằng dặc đường đi chẳng có
chỗ cuối cùng. Nói rồi bà nhắm nghiền hai mí mắt chảy xệ rất nhiều nếp
nhăn xếp chồng lên nhau, kẽ mắt lúc nào cũng ướt loèn nhoèn nhấp nha
nhấp nhính. Nóng lòng muốn hỏi thêm nhiều câu nữa, tôi chỉ được bà mệt
mỏi lắc nhẹ mái đầu bạc phơ và một câu duy nhất: Bố anh và cô anh cũng
nhờ tắm táp, uống nước sông Nguồn mới nên người đấy. Năm ấy bà gần chạm
chín chục tuổi rồi.
Tôi tìm trên bản đồ không có con sông Nguồn nào cả.
Vậy thì sông Nguồn ở đâu?
Tới năm tôi vừa tốt nghiệp phổ thông trung học. Cái tuổi không còn thơ
ngây để tin rằng có một nước Nam Nứ tận ngoài biển Đông, nhưng cũng đã
có thêm một tí khôn ngoan để mơ hồ nhận ra trên đời này hình như có thực
một con sông Nguồn đang reo rắt chảy qua một miền đất mến thương nào
đó. Một con sông Nguồn gần trăm năm nay vẫn âm thầm rì rầm trôi trong
tâm hồn đôn hậu của bà tôi. Qua tết mấy ngày thì bà tôi không ốm không
đau nằm ngủ một lèo lặng êm về cõi Phật. Phút lâm chung, bà mở to đôi
mắt long lanh đến lạ kỳ nhìn tôi rồi thì thào: Có một con sông Nguồn
chốn cố hương thật đấy cháu ạ.
Nhận bằng Cử nhân hôm trước, hôm sau tôi xin phép bố mẹ tự
làm một cuộc hành trình khám phá sông Nguồn. Mẹ tôi ngơ ngác: Mẹ chưa
bao giờ nghe nói có sông Nguồn. Nhưng bà vẫn cẩn thận chuẩn bị lèn chặt
cứng túi hành trang của tôi từ viên thuốc, cuộn bông băng y tế, thậm chí
cả cái kim sợi chỉ. Còn cha tôi thì vẫn nghiêm nghị như thường ngày.
Chỉ dặn một câu: Chưa một lần tắm sông Nguồn thì chưa thành người con ạ.
Đêm đầu tiên thao thức theo nhịp con tàu xình xịch lao phăm phăm vào
bóng tối, tôi rưng rưng nhận ra cha mẹ tôi đã bước sang tuổi già thật
rồi, cái độ tuổi bà nội thì thào với tôi về một nước Nam Nứ mịt mờ ngoài
cửa bể.
Những năm đầu thập niên sáu mươi thế kỷ trước, cha tôi được
cử đi du học nước ngoài. Khi ông hoàn thành chương trình thì đất nước
đang vào giai đoạn quyết liệt chiến tranh chống Mỹ. Ông lại khoác ba lô
hành quân đi B. Ở nhà chỉ còn bà tôi và cô tôi. Mỹ leo thang ném bom
miền Bắc, cô tôi trở thành xạ thủ mười hai ly bảy đơn vị phòng không của
xã. Tham gia chiến đấu được vài năm thì cô trở thành liệt sĩ giữa tuổi
hai mươi hồn nhiên chưa hề vương vấn một mối tình đầu. Sau 30/4, tổ chức
phân công cha tôi ở lại Sài Gòn. Mẹ tôi vốn là cô du kích miền Tây Nam
bộ. Những cuộc cùng nhau chống càn đã xây nên mối tình rất đẹp của hai
người. Ổn định cuộc sống, cha tôi đưa bà tôi vào thành phố ở chung. Vì
chốn quê nhà còn ai ruột thịt nữa đâu. Tôi sinh năm 1980. Khi biết dỏng
tai lắng nghe thì cả ngày được bà rù rì bao nhiêu câu chuyện vừa đẹp như
mơ, vừa buồn buồn êm ái bất chợt hiện lên trong ký ức già nua, trong
nỗi nhung nhớ khôn nguôi của bà cụ hiền hoà quen sống chốn đồng quê lộng
gió giờ bị giam lỏng trong bốn bức tường bê tông ngột ngạt.
Bà tôi kể: Căn nhà gỗ xoan của gia đình mình ngày xưa quay
mặt ra sông Nguồn. Buổi sáng đứng giữa sân vẫn trông thấy những cánh
buồm nâu nhô khỏi mặt đê. Gió to thì buồm căng phồng bay vùn vụt. Ít gió
thì lơ lửng lật phật in lên nền chân trời nhìn giống những đám mây
nhiều màu trôi chầm chậm. Ngày quang mây có thể thấy rõ ngọn tháp chuông
nhà thờ xứ đạo trắng óng ánh bên kia sông Nguồn. Ụ pháo phòng không của
tiểu đội dân quân cô mày nằm giữa mom sông lượn về bên tả. Hôm ấy cô
mày cùng đồng đội quần nhau với một bầy máy bay Mỹ. Cô mày là xạ thủ bấm
cò bắn rơi một máy bay. Thằng phi công vướng bộ đồ bay lóp ngóp giữa
sông, không có ông Hiếng thọt bơi ra vít cổ lôi vào thì chết ngóp. Giữa
trưa thì cô mày cùng cả khẩu đội hy sinh. Tội nghiệp toàn những đứa hơ
hớ chưa chồng. Cả một đuôi tóc dài kẹp chặt trong chiếc cặp ba lá của cô
mày bị mảnh bom hớt ngọt bay đi đâu mất. Chắc là chìm xuống đáy sông
rồi. Tóc cô mày dài lắm. Óng ánh đen nhưng nhức. Mái tóc mới chiều qua
tao còn dội từng gáo nước nấu hoa hương nhu cho cô mày cúi lưng vò vò
bằng hai bàn tay trắng nuột. Đến tận giờ cô mày vẫn về báo mộng đòi tao
nắm tóc và chiếc cặp ba lá ấy. Thương đứt ruột nhưng tao vẫn làm mặt
giận mắng: Cha bố cô đã là liệt nữ anh hùng còn làm nũng mẹ. Nói rồi bà
lặng lẽ kéo vạt áo lau nước mắt. Chốc sau bà lại móm mém cười: Cái ông
Hiếng thọt có công bắt tù binh Mỹ ấy là bạn thân thiết với ông nội mày
đấy. Ông mày học văn. Thời Tây bỏ thi Hán học, chán đời ngày ngày không
ngồi câu cá thì đi ăn giỗ, không đọc văn tế thần ngoài đình hàng tổng
thì la cà chơi cùng bọn trẻ thả diều. Ông Hiếng thọt theo nghề võ. Bị té
ngựa thọt chân. Bất đắc chí bỏ về làm nghề lái đò qua lại hai bến sông
Nguồn. Khi cùng túng quá thường nửa đêm bơi thuyền nan ăn cướp những con
đò dọc. Một bận ông mày dẫn thuyền chở toán thợ gặt nhà mình xuôi xuống
công điền thu hoạch lúa mùa, bị ông Hiếng thọt kề gươm vào cổ quát nằm
im. Ông mày thưa: Ấy ấy xin ngài nhẹ tay kẻo dằm tre đâm vào cổ con thì
khốn. Hiếng thọt cười ha hả buông cây gươm thanh tre bôi vôi đấm lưng
ông mày thùm thụp. Chuyện vui đáo để.
Sau cuộc hành trình hai ngày một đêm, khoảng ba giờ chiều,
con tàu hỏa thả tôi xuống một ga xép. Ghé vào một quán trà chén ngoài
sân ga tôi hỏi ông khách ngồi đối diện đường đi về phía sông Nguồn. Ông
mở tròn mắt: Chưa hề nghe ai nói có sông Nguồn ở vùng này. Bà cụ chủ
quán trùm chiếc khăn đen chỉ chừa hai con mắt nhập nhoèn chậm rãi: Có
sông Nguồn đấy. Cháu cứ theo con đường đất giữa cánh đồng kia kìa, chạm
chân đê là nó đấy.
Tôi chậm rãi bước trên con đường cát mịn chạy giữa cánh đồng
lúa đang ngả màu ua úa lá gừng. Sắp tới mùa gặt nên chỉ có nắng nhạt
vàng và thảm lúa mênh mông. Xa xa đây đó lùm xùm những lũy tre xanh sậm,
tôi đoán ở đó là những thôn làng nho nhỏ. Đi giữa một làng như vậy, mắt
tôi vướng những làn khói bếp bay lơ phơ và mũi tôi chạm mùi cá mắm kho
thơm lựng dọc con đường. Từ sau tấm cổng tre sơ sài vọng ra tiếng người
mẹ trẻ gọi con: Cha tông nhân thằng cu Tĩn lại biến đâu rồi. Không biết
tìm bà về ăn cơm à. Rõ khổ người đâu chuyện trăm năm xa lắc thì nhớ rành
rành mà ngõ nhà mình quên khuấy. Tôi nhận ra y chang khẩu khí, ngữ điệu
bà tôi xưa. Qua một cánh đồng nữa, lúc đôi tai tôi mơ hồ tiếng sóng
sông đắm đuối ôm xiết eo lưng đôi bờ sông mập mạp phù sa thì mắt chạm
thân con đê cao sừng sững. Tôi hăm hở trèo lên mặt đê. Không nghe tiếng
sóng sông rì rào, không một cánh buồm lơ lửng gần xa. Nếu không cả những
ngọn gió nam đang lồng lộng thì cảnh chiều nơi đây vắng vẻ vô cùng. Có
vẻ như chỗ này là một bến đò ngang. Ngay đầu mom sông có một mái nhà
đang toả khói lam chiều ấm cúng. Sát mép nước một con thuyền nho nhỏ bập
bềnh cột vào một cây sào cắm xiên xiên. Từ dưới bến một ông già quần
đùi áo cộc vai vác mái chèo khập khễnh bước về phía ngôi nhà. Cả ông và
căn nhà đều in rõ những đường viền anh ánh bóng hoàng hôn rực rỡ hắt
sang từ phía bờ sông đối diện. Tôi theo chân ông vào nhà. Ông quay qua
hỏi: Cậu muốn sang sông? Tôi dạ rồi lại thưa không. Ông bảo: Cậu là
người miền Nam? Tiếp thêm: Người Nam dạ là vâng. Tôi đã ở trong ấy mấy
năm. Rồi ông lặng lẽ đi vào khuông cửa bếp đang đỏ lửa. Tôi cởi ba lô
ngồi lên chiếc ghế băng làm bằng nguyên một tấm ván bìa đặt trên bốn
chân chôn xuống đất. Mặt bàn cũng bằng nguyên hai tấm như vậy ghép lại.
Một ngọn đèn nhỏ như trái ớt cháy leo lét trên mặt bàn. Gian bên, bà cụ
già ngồi trên tấm võng đay rờ rẫm hai bàn tay đội lại tấm khăn vuông màu
đen. Áng chừng cụ tầm tuổi bà tôi. Nhưng giọng nói thì chưa nhiễu hơi
thở phập phù. Còn nghe rõ từng âm tiết. Bà cụ chỉ lưng ông lái đò bảo:
Thằng cả nhà tôi đấy. Nó đánh Mỹ cả chục năm trong đó. Bị thương vỡ bánh
chè nên khập khiễng. Thảo nào thoáng trông vào mắt ông tôi thấy giống
hệt ánh mắt cha tôi. Hình như những người lính đã trải qua chiến tranh
đều có đôi mắt như vậy cả. Có một chút ngơ ngác, một chút nghiêm nghị và
một chút xa vắng buồn buồn cố giấu. Lát sau cô gái dưới bếp bưng lên
một ấm trà và bốn cái ly, miệng lí nhí mời khách. Tôi nhìn kỹ đoán cô
trạc tuổi cô tôi hồi đó. Khi cô quay người trở ra, tim tôi giật thót
trông thấy mớ tóc dài kẹp gọn ghẽ bằng chiếc cặp ba lá sáng óng ánh nằm
ngang eo lưng tròn lẳn. Chắc cùng kiểu với chiếc cặp tóc của cô tôi mà
bà tôi đã gói sâu trong ký ức nhớ thương tới ngày về với sông Nguồn. Cô
gái lui về căn bếp rồi, để lại mùi hương hoa hương nhu se se toả ra từ
mái tóc thơm khắp ba gian nhà nhỏ. Bà cụ chủ nhà lại cất lời: Cháu gái
tôi đấy. Đã học xong đại học sư phạm trên tỉnh năm ngoái. Bốn năm cha nó
nén chịu chân đau gò lưng chèo đò nuôi con, bây giờ nó lại quay về cam
chịu phận gái phụ bố chèo đò, chỉ vì không chịu đáp ứng yêu sách đầu
tiên của ai đó. Mà có dư dả bố nó cũng không chịu nhục như vậy. Tôi biết
tính khí nó mà.
Khuya ấy, tôi đang lan man nghĩ: Giá như chị gái kia sinh
cùng thời với cô tôi thì … Sóng sông rì rầm và làn gió mát rượi từ cửa
biển đã ru tôi vào giấc ngủ. Tôi mơ thấy cháu gái bà cụ cùng chung khẩu
đội mười hai ly bẩy với cô tôi. Họ cùng hy sinh một lúc. Cùng bị bay
ngược hai mớ tóc đen dài và hai chiếc kẹp ba lá óng ánh rớt xuống giữa
sông. Hai chiếc cặp thì vùi dưới đáy sông. Còn hai mớ tóc trôi cuồn cuộn
theo sóng chảy dài đến vô cùng. Tôi cũng mơ thấy tôi vùng vẫy giữa dòng
sông bơi sải hai cánh tay giữa những sợi tóc trơn trơn cọ vào da thịt
tôi lướt thướt. Và cả dòng sông bỗng nhiên nóng ấm như một nồi nước
hương nhu thơm sực. Có lúc mơ thấy chị không chết mà bây giờ chính là
cái người đòi thủ tục đầu tiên ấy. Lúc sau chị lại chính là vị nữ thẩm
phán đanh thép kết tội kẻ tham nhũng kia.
Tôi tỉnh dậy lúc ông lái đò lịch kịch chuẩn bị đồ nghề khập
khễnh ra bến sông. Ông đưa tôi sang sông. Tôi bước lên bờ, ông lưu luyến
dặn: Con cứ theo con đê này ngược lên phía thượng lưu. Hình như phía ấy
có luỹ thành đồn chống Tây của quan Hoàng Giáp người làng Tam Đăng.
Sông Nguồn có thể phát nguyên từ chỗ đấy.
Bà tôi đã từng kể: Cụ Tổ đời thứ tám của họ ta xếp dao cầu
thuyền tán đầu quân dưới trướng quan Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Các cụ
huy động dân quân đắp đồn dựng lũy ròng rã mấy tháng trời. Lại quyên góp
rựa cùn cuốc mẻ rèn thành sợi xích dài giăng ngang ngã ba sông chắn tàu
sắt của Tây. Lại truyền dân khắp vùng hái hết ổi xanh, mơ mận còn xanh
rải kín mặt đường. Lính Tây vận giày cột xà cạp da cao qua đầu gối đi
lại thẳng đơ, các cụ cho là nó không có đầu gối. Hễ đạp phải trái ổi
xanh lăn tròn thì mười mươi ngã chỏng vó. Nào ngờ xích sắt nó nổ đoàng
một phát đã đứt phựt. Còn ổi xanh, mơ xanh, đứa nhai ngồm ngoàm xì xồ bòong bòong.
Đứa nhét đầy túi cóc. Mấy trận liền các cụ bị thua. Quan Hoàng giáp tử
nạn. Cụ Tổ mày nuốt thuốc phiện quấn giấy bản tự vẫn. Sau dân làng lập
đền thờ các quan ngài cạnh miếu Bà Nàng dưới tán cây muỗm đầu xóm gốc to
chục người ôm không hết. Miếu Bà Nàng mỗi tháng đều có mấy cuộc hát văn
lên đồng. Cuộc nào cũng bà đồng Tháp ngồi hầu bóng từ đầu chí cuối. Mà
cái bà đồng ấy hầu bóng hay lắm. Lắc lư múa may, mặt mày thất sắc như là
các ông hoàng bà chúa ngự về thật. Chỉ có điều hễ đến lúc vãn chầu phát
lộc thì thánh toàn chia những thứ ngon vào tay con cháu mình. Người
ngoài toàn đầu mấu mía và chuối lép. Có lần ông Hiếng thọt cớt nhả đòi
mó máy cái ấy của bà chúa sơn lâm. Ông ấy bảo: các cụ nói “Lạnh như l…
ma”. Nếu tôi thấy nóng hổi thì là đồng giả. Bà đồng Tháp quên cả mình
đang ngồi đồng quay ra chửi: Cha tổ thằng thọt. Đã bị quan ôn vật suýt
chết còn chưa kinh.
Ngày thứ hai tôi vác ba lô trên vai đi bộ trên mặt con đê chạy hút
phía thượng nguồn. Tới non trưa thì gặp một đoàn các bà các cô xúng xính
tà áo dài bay lướn phướn. Người xách làn, người đội đồ lễ. Họ bảo đi
hội đền ông Hoàng. Tôi bám theo sau. Cô trẻ nhất nói với bà già nhất: Cụ
Tháp ơi sắp đến hội chưa? Cha bố cô mới được một thôi đường đã mỏi
chân. Tôi giật mình chả lẽ đây là bà đồng Tháp cùng thời với bà tôi còn
sống? Khu vực làng mở hội là quần thể đền và miếu những mấy ngôi quy tụ
xung quanh gốc cây gội cổ thụ loằng ngoằng bao nhiêu rễ nổi lên mặt đất
tựa rắn bò. Tôi hỏi thì được biết đây không phải đền thờ các vị trung
lương tử nạn thời chống Tây. Cây gội không phải là cây muỗm.
Vậy thì đền thờ ngài Hoàng giáp và cụ Tổ tôi ở phương nào nhỉ? Đêm ấy
tan hội tôi xin ngủ ở đền với cụ từ coi đền. Cả đêm cụ rù rì kể tôi nghe
về thần tích ngôi đền. Ngài xuất thân là anh đơm đó tép. Không vợ không
con, ngài ở chung với ông hổ nhỏ. Sau bị ông hổ nhầm là kẻ đổ trộm đó
tép tát chết. Rồi ngài hiển linh cứu dân làng thoát nạn dịch. Dân làng
tôn ngài làm Thành Hoàng, lập đền này thờ từ bấy đến nay. Tôi hỏi sông
Nguồn, cụ chỉ biết lơ mơ về một con sông Nguồn truyền tụng trong dân
gian. Ngôi đền Trung liệt và cây muỗm miếu Bà Nàng cụ cũng chỉ nghe đâu
nó ở trên mạn ngược. Không chắc chắn nhưng cụ đinh ninh tất cả đều có
thực.
Bà tôi cũng từng bảo: Bố mày ra đời trong căn buồng ấm cúng, trên chiếc
giường gỗ lim đen rưng rức, nặng trịch bốn người khiêng không nổi. Cụ
nội cũng sinh ra ông nội mày trên chiếc giường bóng lưỡng nước thời gian
ấy. Ông cố, ông sơ các đời cũng đều mở mắt chào đời từ đấy. Người nào
lần đầu tiên da thịt cũng được bọc bằng tấm áo cũ còn hôi hổi mồ hôi ông
bà cha mẹ. Người nào cũng được tắm táp, được uống nước sông Nguồn, nên
người nào cũng thành người đáng kính. Chỉ có mày sinh ra trong bệnh
viện. Chỗ nào cũng một màu trắng toát. Đến tấm tã lọt lòng cũng trắng
tinh lạnh lẽo. Cha bố anh! Bà thương cái thằng cún con của bà lọt lòng
chưa được tắm nước sông Nguồn. Chưa được uống nước sông Nguồn quá.
Sáng sớm mai tôi lại đi tiếp về phía thượng nguồn. Chắc chắn có một con
sông Nguồn đang đợi tôi nơi ấy. Bởi trong tôi luôn thì thào câu nói
linh thiêng của bà tôi: Có một con sông Nguồn trên cõi đời này, thật
đấy. Và tôi tin tôi sẽ được tắm nước sông Nguồn. Tôi sẽ nên người như cô
tôi, như bố tôi, như các vị tổ tiên tôn kính của tôi.
Mùa hè của tôi còn nhiều ngày nghỉ. Tôi còn trẻ lắm mới ngoài hai mươi tuổi.
(Trích trong Tuyển tập Văn Tây Ninh 40 năm)
CỎ YÊU
Từng có một loài cỏ dại
Thơm như mùi mít chín cây
Tuổi thơ chúng tôi ngày ấy
Dắt nhau ngơ ngẩn đi tìm
Đem cỏ giấu vào áo gối
Khấn thầm gặp Bụt gặp tiên
Em mơ cô Tấm dịu hiền
Đi hội cùng chàng hoàng tử
Cất nắm cỏ thơm túi ngực
Đêm đêm trăng mọc đầu giường
Đầy buồng nưng nức mùi hương
Tôi quên tuổi thơ lấm láp
Một ngày tôi hết dại khờ
Nhận ra mùi hương con gái
Ngây ngây lẩn vào cỏ dại
Thì thào em bảo cỏ yêu
Lời yêu vừa ngọt đôi môi
Gặp thời bom rơi đạn nổ
Chúng tôi cuốn vào giông tố
Cỏ yêu ém đáy ba lô
Ngày về lẻ một mình tôi
Bao năm em nằm đâu đó
Bên em xanh miên man cỏ
Ngọn nào ngan ngát cỏ yêu !
22/9/2015
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét