Từ chỗ phải đương đầu với thiên nhiên
hà khắc ở nơi rừng thẳm, đến nay Tây Ninh chỉ còn rất ít hộ dân nghèo,
phần lớn dân cư từ nông thôn đến thành thị đều có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, được học hành, được chăm sóc sức khoẻ, được hưởng đầy đủ quyền con
người, quyền công dân của một nước tự do, độc lập.
TRẦN LƯU QUANG
Uỷ viên Trung ương Đảng – Bí thư Tỉnh uỷ
Theo
các sách sử còn lưu lại từ nửa đầu thế kỷ XIX, mùa Thu năm Bính Thân
1836, năm Minh Mạng thứ 17 triều đại nhà Nguyễn, tên gọi Tây Ninh chính
thức ra đời, thể hiện ước vọng an lạc, khang ninh của người dân vùng
rừng núi biên cương phía Tây Nam nước Việt. Phủ Tây Ninh là một trong 3
phủ của tỉnh Gia Định, một trong lục tỉnh Nam Kỳ, phần cuối của công
cuộc mở mang bờ cõi về phương Nam của tổ tiên ta vốn đã diễn ra từ hàng
trăm năm trước đó, vào khoảng giữa thế kỷ XVII.
Từ
mùa Thu ấy đến nay, trải qua 180 năm với biết bao thay đổi thăng trầm
của lịch sử, Tây Ninh từ đơn vị cấp phủ – trên huyện, dưới tỉnh – đã
được nâng lên thành tỉnh vào năm cuối thế kỷ XIX. Suốt 180 năm ấy, Tây
Ninh là một trong rất ít tỉnh, thành trên cả nước giữ nguyên tên gọi
chính danh của quê hương mình; ngoại trừ giai đoạn cuối cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp tái xâm lược nước ta, Tây Ninh tạm thời sáp nhập
với tỉnh Gia Định thành tỉnh Gia Ninh; nhưng cũng chỉ có 4 năm – từ năm
1951 đến năm 1954, sau đó phần lãnh thổ Tây Ninh trước khi sáp nhập được
trả lại chính danh và giữ nguyên cho đến bây giờ.
Hình
thành đơn vị hành chính cấp phủ chưa được bao lâu, sáu tỉnh Nam kỳ rơi
vào tay thực dân Pháp, phủ Tây Ninh trở thành một hạt, một khu tham
biện, rồi sau là một tỉnh của bộ máy hành chính thuộc địa Nam kỳ –
Cochinchine, hay còn gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Thế nhưng, nhân dân
các dân tộc ở Tây Ninh, dù trong tay không có tàu đồng, súng lớn, chỉ có
giáo mác thô sơ vẫn không cam tâm khuất phục ngoại bang xâm lược, đã
liên tục đứng lên quyết đánh đuổi giặc. Từ vị quan Tham tán quân vụ Khâm
Tấn Tường do triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm ở phủ Tây Ninh không tuân
hành lệnh bãi binh của triều đình đã rút quân về An Cơ (huyện Châu
Thành) chiêu mộ nghĩa quân, mua sắm vũ khí, lương thực, bám lấy địa hình
rừng rậm, quyết tâm chống giặc, đến những nghĩa sĩ xuất thân là nông
dân, có ý chí bất khuất như lãnh binh Tòng, lãnh binh Két đã phục kích
đánh Pháp nhiều trận oanh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
Oanh liệt nhất là lực lượng nghĩa quân Trương Quyền, cháu của Bình Tây
Đại nguyên soái Trương Định, sau khi Trương Định hy sinh ở Gò Công,
Trương Quyền đã đưa quân lên vùng rừng núi Tây Ninh phối hợp với nghĩa
quân Khmer của Pukumpo đánh Pháp. Điển hình như trận đánh của liên quân
Việt – Khmer ngày 7.6.1866 tiêu diệt viên quan trấn nhậm Tây Ninh đầu
tiên của thực dân Pháp là Đại uý De Larclauze tại bến Trường Đổi, cách
lỵ sở trung tâm của chính quyền thuộc Pháp ở Tây Ninh chỉ vài cây số…
Đó
là những trang sử rất đẹp của ông cha ta trong những ngày đầu chống
giặc Pháp xâm lược. Tuy nhiên, do thế và lực không đủ mạnh để xua đuổi
giặc ra khỏi quê hương, đất nước, nghĩa quân không địch nổi với đội quân
xâm lược nhà nghề nên bọn chúng đã áp đặt được bộ máy cai trị, tiến
hành chính sách khai thác thuộc địa theo chủ nghĩa thực dân cũ tại tại
phủ. Mặc dù vậy, Pháp vẫn không thể dập tắt lòng yêu nước, tinh thần bất
khuất của người dân Tây Ninh. Trái lại, từ sự căm thù sâu sắc đối với
quân cướp nước đã hình thành nên truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm,
giành độc lập dân tộc lưu truyền trong huyết quản các thế hệ người dân
Tây Ninh.
Bước
sang thế kỷ XX, Tây Ninh trở thành một tỉnh trong số 20 tỉnh Nam kỳ
thuộc Pháp theo nghị định ký ngày 20.12.1899. Trước đó 10 năm, Pháp đã
ký hiệp ước phân định biên giới với Vương quốc Campuchia, theo đó Pháp
cắt một phần đất của Tây Ninh dọc theo “rạch Ngã Bát” cho Campuchia. Từ
đấy địa giới hành chính tỉnh Tây Ninh duy trì trọn vẹn cho đến ngày nay.
Như thế, tính từ khi được chính danh là phủ Tây Ninh, Tây Ninh đã có
180 năm hình thành và phát triển.
Theo
kết quả khảo cổ học của Pháp đầu thế kỷ XX, cũng như kết quả đợt khảo
cổ các di tích gò tháp ở Tây Ninh năm 1989 của Viện Khoa học xã hội Việt
Nam và các nhà khoa học Liên Xô, đều xác định cộng đồng dân cư cổ xưa
đã đến sinh cơ lập nghiệp trên đất Tây Ninh – Vàm Cỏ vào khoảng 2.000
năm trước Công nguyên với phương thức sản xuất nông nghiệp nương rẫy,
đánh bắt thuỷ sản, nghề làm đồ gốm và một số nghề thủ công khác. Đến đầu
Công nguyên, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long dần trở thành vùng đất
trù phú, văn minh vào bậc nhất Đông Nam Á (thế kỷ I – thế kỷ VII) với
Nhà nước theo chế độ chính trị tôn giáo Ấn Độ mà sử xưa gọi là Phù Nam.
Sau khi nước Phù Nam cổ đại suy yếu và sụp đổ, Tây Ninh cũng như nhiều
vùng khác ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long trở thành”vùng đệm”, vùng
tranh giành ảnh hưởng của các vương quốc lớn lúc bấy giờ (Angco, Champa,
Java). Có lẽ vì vậy mà từ thế kỷ thứ IX trở về sau, cộng đồng dân cư ở
vùng đất phồn thịnh một thời về kinh tế, rực rỡ về văn hoá đã phải lưu
tán đến những vùng đất khác, khiến nơi đây trở thành hoang địa suốt
nhiều thế kỷ.
Mãi
đến đầu thế kỷ XVII, Tây Ninh vẫn còn là vùng rừng rậm hoang vu. Người
Khmer di cư đến ở trước, sau đó người Việt cũng đến đây khai hoang lập
ấp, làm ăn sinh sống. Hai dân tộc cùng hiếu hoà đã chung sống chan hoà,
đoàn kết trên mảnh đất này từ trước khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh
vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào miền Đồng Nai (xưa gọi là Nông Nại)
ổn định tình hình, thiết lập bộ máy hành chính, lập phủ Gia Định với hai
huyện Phước Long và Tân Bình. Đất Tây Ninh ngày nay trước chỉ là những
thôn xóm nhỏ rời rạc của những lưu dân từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong,
xuôi về đất Nam kỳ định cư ở hai đơn vị hành chính nhỏ của phủ Gia Định
là đạo Quang Phong và đạo Quang Hoá. Về phía người dân, chính từ sự
chung sống chan hoà, thân ái, cùng giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn
nghiệt ngã của thiên nhiên vùng rừng hoang đầy thú dữ để sản xuất tạo
nguồn sống, cùng chung lưng đấu cật chống lại nạn cướp bóc của thổ phỉ,
rồi đến giặc ngoại xâm đã hình thành truyền thống đoàn kết, hữu nghị
giữa hai dân tộc từ thời xa xưa, mà hoạt động liên quân giữa Trương
Quyền và Pukumpo đoàn kết kháng Pháp là một minh chứng rõ ràng nhất.
Sống
khổ ải, lầm than dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, người dân Tây Ninh
luôn nung nấu ý chí bất khuất, nuôi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước
cho đến khi có ánh sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam soi rọi đến Tây Ninh
bằng ngọn lửa Nam kỳ khởi nghĩa. Toàn dân Tây Ninh không phân biệt dân
tộc, tôn giáo đã đoàn kết dưới ngọn cờ Việt Minh do Tỉnh uỷ lâm thời
lãnh đạo, vùng lên hưởng ứng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành lấy
chính quyền từ tay thực dân, phát – xít, xoá bỏ bộ máy cai trị thuộc
Pháp, lập nên Uỷ ban Hành chính tỉnh Tây Ninh thuộc nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc Tuyên ngôn
độc lập ngày 2.9, khẳng định trước thế giới Tổ quốc Việt Nam ta đã vĩnh
viễn xoá bỏ ách nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến, trở thành một
nước tự do và độc lập.
Thế
nhưng, dã tâm xâm lược của thực dân Pháp vẫn chưa chấm hết, sau ngày
Việt Nam độc lập không bao lâu, Pháp lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Và ngay sau khi chiếm Sài Gòn – Gia Định, bọn chúng lại rầm rộ kéo quân
lên Tây Ninh. Thế là nhân dân Tây Ninh lại lên đường kháng chiến cứu
nước. Lần này dù chỉ “nóp với giáo mang trên vai”, nhưng quân dân ta đã
có ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ soi đường chỉ lối, nên tuy không cản
được bước tiến của giặc với xe tăng, đại pháo ở các mặt trận Suối Sâu,
Trâm Vàng, Bến Kéo dọc theo quốc lộ 1 (nay là quốc lộ 22, 22B) từ Sài
Gòn lên Tây Ninh, nhưng quân dân ta cũng đã cảnh báo với giặc lần này
chúng đừng hòng khuất phục được dân tộc Việt Nam như cuộc xâm lược đầu
tiên 80 năm về trước.
Rồi
trong một đêm xuân năm Bính Tuất – 1946, 27 thanh niên nghĩa sĩ xứ
Trảng Bàng đã tụ họp tại rừng Rong, một vị trí ở Bình Tịnh thôn thời
khai cơ mở đất Tây Ninh, nay là xã An Tịnh, để mở hội thề quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh. Trong khi đó, Tỉnh uỷ lâm thời cùng với Uỷ ban Hành
chính và các cơ quan, đoàn thể tỉnh đã kéo ra bưng biền bắt đầu cuộc
kháng chiến. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đất Tây Ninh
vinh dự được chọn làm nơi đứng chân của Xứ uỷ Nam bộ, sau là Trung ương
Cục miền Nam, để lãnh đạo quân dân miền Nam kháng chiến đến khi thắng
lợi. Sau Hiệp định Genève, ta giải phóng được phân nửa đất nước, miền
Bắc trở thành hậu phương lớn, là chỗ dựa vững chắc để cách mạng miền Nam
tiếp tục cuộc trường chinh giải phóng dân tộc, khi mà đế quốc Mỹ đã
thay chân thực dân Pháp chiếm đóng miền Nam. Một lần nữa đất Tây Ninh
lại được chọn làm nơi đứng chân của Trung ương Cục miền Nam, một bộ phận
của Trung ương Đảng, cơ quan đầu não, lãnh đạo cuộc kháng chiến của
nhân dân miền Nam.
Vì
sao đất Tây Ninh, một vùng đất biên cương khô cằn, nắng cháy, rừng rậm
đồng hoang lại được Trung ương tin tưởng, trú đóng từ đầu đến cuối cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc? Điều này đã được ông cha ta, những người
có công khai hoang mở đất Tây Ninh lý giải, đó là nơi hội tụ cả “thiên
thời, địa lợi, nhân hoà” để có thể làm nên nghiệp lớn. Ta hãy nghe lời
của một vị lão thành cách mạng của Đảng bộ tỉnh Tây Ninh, cố Thiếu tướng
Ngô Quang Nghĩa, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Công an, nguyên Uỷ
viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc Công an tỉnh Tây Ninh kể trong tập hồi
ký Căn cứ địa Bắc Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
“…Việc
đặt Căn cứ R ở Tây Ninh là sự sáng suốt, tinh nhạy trong ý đồ chiến
lược của Trung ương Cục. Vì địa bàn Tây Ninh hội tụ nhiều yếu tố thuận
lợi:
Yếu
tố thứ nhất, dựa lưng vào chiến trường Campuchia. Từ thời kháng Pháp,
ta và nước bạn Campuchia, nước bạn Lào đã là một chiến trường. Truyền
thống đó gần như là quy luật tất yếu trong thế chân vạc để chiến thắng
kẻ thù chung của ba nước Đông Dương…
Yếu
tố thứ hai, đường giao liên giữa Tây Ninh đến Trung ương ở miền Bắc
thông qua lãnh thổ Campuchia rất thoáng. Từ địa bàn Trung ương Cục ở Rùm
Đuông, Chàng Riệc đến biên giới và quốc lộ 7 Campuchia chỉ 1km. Từ quốc
lộ 7 đi lên Phnom Penh chỉ mất hai tiếng đồng hồ, với giấy tờ hợp pháp
có thể đi đường hàng không ra Hà Nội rất nhanh. Đồng chí Nguyễn Chí
Thanh, đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Phạm Hùng và nhiều cán bộ trung,
cao cấp của Đảng thường đi lại giữa Hà Nội và Trung ương Cục bằng con
đường này.
Yếu
tố thứ ba, căn cứ chỉ cách Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch 100km,
có sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông và quốc lộ 22, liên tỉnh lộ 19-26 (nay
là đường tỉnh 782-784) tạo thành tuyến giao thông quan trọng để tạo yếu
tố bất ngờ khi đánh vào đầu não địch. Căn cứ đặt ở vùng rừng đồng bằng,
không đồi núi, tiếp giáp vùng ruộng rẫy phì nhiêu hai bên biên giới,
nhân dân hai nước luôn nhiệt thành ủng hộ cách mạng, sẵn sàng tiếp tế
lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm… vì vậy mặt hậu cần luôn được bảo
đảm. Đó cũng là một yếu tố quan trọng giúp ta chiến thắng quân đội Mỹ.
Chọn
Tây Ninh làm căn cứ Trung ương Cục là sự lựa chọn đúng đắn. Từ các ưu
điểm lợi thế đó mà địch gọi Trung ương Cục là “Nhà Trắng”, là “Lầu Năm
Góc” của Việt Cộng. Lịch sử đã đặt cho Tây Ninh phải đảm nhận vai trò
căn cứ địa của cách mạng miền Nam đó là yếu tố khách quan, tất yếu không
thể khác được…”.
Với
mục tiêu tiêu diệt căn cứ này, quân Mỹ và nhiều nước đồng minh của Mỹ
đổ hơn nửa triệu quân vào miền Nam Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh
cục bộ. Mùa khô năm 1966-1967, chúng đã mở những cuộc hành quân quy mô
lớn nhất trong suốt cuộc chiến tranh, với 45.000 quân Mỹ, hàng ngàn
chiến xa, đại pháo, hàng trăm phi cơ, mệnh danh là cuộc hành quân
Junction City càn quét lên vùng Bắc Tây Ninh để hòng tìm diệt Trung ương
Cục miền Nam. Trước tình thế đó, quân dân Tây Ninh đã hình thành thế
trận bảo vệ Trung ương Cục từ xa và đã đánh cho chúng tan tác, trong khi
chúng chẳng thấy bóng dáng một “Việt Cộng đầu não” nào ở khu căn cứ
mệnh danh là R.
Đại
thắng mùa xuân năm 1975, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước ta ca
khúc khải hoàn, trong khi đó Tây Ninh lại phải tiếp tục cầm súng chiến
đấu chống bọn diệt chủng Pôn Pốt, giúp đất nước Chùa Tháp hồi sinh.
Nghĩa cử này một lần nữa khẳng định tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân
tộc, hai đất nước Việt Nam – Campuchia đời đời bền vững, mãi mãi trường
tồn.
Cho
đến năm 1980, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc kết thúc, Đảng bộ và nhân
dân Tây Ninh mới thực sự bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây
dựng kinh tế, phát triển xã hội. Thế mà chỉ 5 năm sau, năm 1985, Tây
Ninh đã xây dựng hoàn thành một công trình vĩ đại, lớn nhất vùng Đông
Nam Á, công trình thuỷ nông Dầu Tiếng – Tây Ninh trên vùng đất chiến khu
Dương Minh Châu năm xưa với diện tích mặt hồ 27.000 ha, chứa 1,5 tỷ mét
khối nước, tưới cho hàng trăm ngàn ha cây trồng của Tây Ninh và cả
những huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, tức Sài Gòn – Gia Định
năm xưa.
Tổng duyệt chương trình nghệ thuật “Tây Ninh 180 năm tình đất tình người”.
180
năm qua, từ một vùng đất hoang sơ, dân cư chỉ có hơn 11.000 người –
theo số liệu điều tra ban đầu của chính quyền thuộc Pháp, đến nay dân số
tỉnh Tây Ninh đã tăng gấp 100 lần với hơn 1,1 triệu nhân khẩu. Thế mà,
từ chỗ phải đương đầu với thiên nhiên hà khắc ở nơi rừng thẳm, đến nay
Tây Ninh chỉ còn rất ít hộ dân nghèo, phần lớn dân cư từ nông thôn đến
thành thị đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được học hành, được chăm
sóc sức khoẻ, được hưởng đầy đủ quyền con người, quyền công dân của một
nước tự do, độc lập. Đó là nhờ công ơn các bậc tiền nhân đã đội nắng dầm
mưa, khai cơ lập nghiệp trên vùng đất này. Đó là nhờ bao thế hệ chiến
sĩ, đồng bào Tây Ninh, cùng với biết bao người con ưu tú của nhân dân cả
nước đã hy sinh xương máu tô thắm ngọn cờ chính nghĩa để cho Tây Ninh
giữ vững chính danh trên vùng đất này. Công ơn ấy, người Tây Ninh hôm
nay và các thế hệ mai sau mãi mãi không quên.
T.L.Q
Nguồn baotayninh.vn
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét