Thứ Năm, 4 tháng 7, 2019

ĐỌC “CHƠI GIỮA THƯỜNG HẰNG” TẬP THƠ LỤC BÁT, TÁC GIẢ NGÃ DU TỬ – Cảm nhận Châu Thạch

 
 
Nhận tập thơ của Ngã Du Tử tặng đã hơn ba năm, nó đi theo tâm trí tôi suốt ba năm. Viết về nó? Không đủ trình độ ! Không viết về nó? Nó như  bức tranh Giáng Tiên của chàng Tú Uyên treo  ngay trên tường nhà tôi. Nàng tiên phải bước ra thì mới thỏa lòng ao ước của tôi!
 
Vậy thì hôm nay tôi liều viết. như liều mời nàng tiên ra vậy. Viết xong sẽ gởi tấm lòng cho gió cuốn đi như nhạc Trịnh công Sơn, nó đến đâu thì cứ đến, hoặc nếu nàng tiên bỏ tôi đi biệt về Trời thì cũng thỏa lòng.
 
“Thường hằng” là gì? Theo nhà thơ Ngã Du Tử: “Mỗi hành trình một đời người trú ngụ trên trần gian đều chứng nghiệm muôn màu muôn vẻ của sinh lão bệnh tử, của thành trụ hoại diệt. Cái ấy khái niệm của Phật giáo là thường hằng”. “Vô thường là dịch biến, ngược lại là thường hằng. Vậy thường hằng là bất biến. Vô thường được giải thích nôm na như sóng, sóng là vô thường còn nước là thường hằng, mặc dầu sóng là do có nước mới sinh ra”
 
Vậy chơi giữa thường hằng là gì? Có lẽ cũng phải dùng lời tác giả để giải thích  cho dễ hiểu hơn: “Quay về cõi tâm linh đễ tìm cho mình chốn an bình cho tâm thể”. “Nương vào diệu pháp”, “làm nhẹ nhàng cho tâm thức lẫn tâm thể”, “Cảm thấy thật bình yên trong  đối đãi cho từng mỗi người trong thế gian muôn mặt”.
 
Trường thi “Chơi Giữa Thường Hằng” được chia ra 10 chương, mỗi chương có một đề tài riêng biệt. Tác giả muốn trong mỗi chương, người đọc  nhận dạng từng hoàn cảnh đối đãi với tha nhân trong hành trình của đời người được hội ngộ cùng nhau.
 
Chương mở đầu: Vương Vấn!
 
“Vương Vấn” có 36 câu lục bát. Mở đầu cuộc rong chơi bằng những câu thơ vương mang bến tình, vương mang vần trăng cổ độ. Một lần gặp em đã trở nên một nhánh phù sinh trong cuộc sống:
           
              “Ta về ngắm khóm vô ưu
               Gặp em trên nhánh ưu tư phận mình
               Ô hay một nhánh phù sinh
               Còn bao nhiêu mộng phiêu linh rợp ngày.”
 
Chương 2: Quán Chiếu.
 
“Quán Chiếu” có 40 câu thơ. “Em từ quán chiếu sang ngôi/ Vầng mây mở lối bên đồi  tịnh yên”. Vậy quán chiếu là gì? Quán chiếu là nhìn thật sâu vào vấn đề gì đó, soi rọi lại Tâm của mình bằng trí tuệ để tìm ra chân lý. Quán chiếu là một Quá trình tư duy. Sự phân tích, tổng hợp, dựa vào kinh nghiệm bản thân, quan sát chung quanh mình, soi rọi để thấy rõ … Như vậy gọi là quán chiếu.
 
Nhà thơ Ngã Du Tử đã khuyên em từ quán chiếu bước ra, nghĩa là đã nhìn thấy được lẽ thật, thì đừng “Ngập chìm trong cõi u mình/Ngàn năm nào biết sự tình mù khơi” mà phải biết  sống chơi giữa thường hằng để cho đường đời ta trở thành “Đường đi có ngát trầm hương thế tình”. Phải chơi giữa thường hằng và chơi như Ngã Du Tử:
          
            Không còn canh cánh âu lo
            Núi sông tự tại giữa bờ thực hư
            Ta về khoác áo chân như
            Gối lên Bắc Đẩu làm thơ theo mùa.
 
Chương 3: Thơm Áo Đường Mây có 24 câu thơ.
         
           Em từ thơm áo đường mây
      … Tưởng rằng hạnh phúc cùng vinh quang về
           Giả hình giả tưởng u mê
           Cứ vui vọng niệm bên lề khói sương.
 
“Thơm  Áo Đường Mây” là những vần thơ cảnh tỉnh em  Linh hồn em đang đắm đuối trong vinh quang phù phiêm. Em phải nhớ răng,  tất cả chỉ là vui trong vọng niệm và ngàn kiếp cũng sẽ  trở thành khói sương  tất cả.
 
Chương 4: Triền Phược gồm 60 câu thơ.
 
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, ngài nhắc nhở các Tỳ-Kheo phải tránh 5 tâm hoang vu và đoạn tận 5 tâm triền phược.
Năm tâm hoang vu là sự  nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng,  nghi ngờ học giới nhà phật và những điều không hoan hỷ trong lòng.
Năm tâm triền phược là thích lạc thú trần gian, luyến ái tự thân , đam mê sắc dục, ham thích ăn ngủ, muốn thành thần thành thánh.
Nhìn chung năm triền phược là năm yếu tố ham muốn khiến tâm thức bị dinh mắc, bị trói buộc rơi vào mê mờ, quay cuồng, khổ đau, không thanh thản và không an lạc.
 
Bằng  6o câu lục bát “trong như tiếng hạt”, Ngã Du Tử đã chỉ cánh cửa căn  nguyên cho tha nhân có căn cơ thì “Miệt mài chăm bón chân như hiển bày” bỏ đi triền phược, hầu cho  người thế gian ai được “hưởng phước này là vui”:
                        
                          Căn nguyên chỉ một chữ từ
                          Miệt mài chăm bón chân như hiển bày
                          Hạnh thơm bay ngược gió lay
                          Thế gian ai hưởng phước này là vui.
 
Chương 5: Dụng Tâm có 52 câu thơ lục bát.
                   
                     Ta về lên vọng lầu xưa
                     Thâm kinh vô tự cho vừa nhíp tâm
                     Bi trí dũng ngắm ánh rằm
                     Tròn vành vạnh một đêm trăng ngọn nguồn.
 
“Kinh vô tự” là kinh gì? Phải chăng là “Bất lập văn tự/ Giáo ngoại biệt truyền/Trực chỉ nhơn tâm/Kiến tánh thành Phật.”. Phải chăng Ngã Du Tử đã khuyên ta thiền, Người theo Phật phải dụng cái tâm để hành thiền thì mới xé toạt màng vô mình để kiến tánh.  Khi kiến tánh rồi thì chứng ngộ chân lý y nguyên như câu thơ “Tròn vành vạnh một đêm trăng ngọn nguồn.” mà Ngã Du Tử đã viết vậy.
 
Chương 6: Trang Đời Lần Giở có 36 câu thơ.
 
Trang Đời không phải chỉ đời nầy mà mỗi kiếp sống một trang đời. Ngã Du Tử muốn em, muốn ta, muốn thế gian sống sao cho trang đời thật đẹp.  Dầu đời có “tiền kiếp đắng cay”, dầu đời có “Nghiệp duyên theo mãi hành trình trôi xuôi”  thì khi giở trang đời ta vẫn tìn thấy được:
 
                         Niềm vui chảy với ngàn sông
                         Về cùng biển sẽ hòa cùng nhân gian
                         Cung vui bật dậy thênh thang
                         Tung tăng nhảy múa tràng giang liên hồi.
 
Chương 7: Trước Minh Kính Đài có 36 câu thơ
 
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực ở khắp nơi.
     Bài của Thượng tọa Thần Tú:
       
        Thân thị bồ-đề thọ
        Tâm như minh kính đài
        Thời thời cần phất thức
        Vật sử nhạ trần ai.
(Thân là cây bồ-đề – Tâm như đài gương sáng – Phải luôn lau chùi sạch – Chớ để bụi trần bám).      
 Bài của Lục tổ Huệ Năng;
      
       Bồ-đề bổn vô thọ
       Minh kính diệc phi đài
       Bổn lai vô nhất vật
       Hà xứ nhạ trần ai?
           
            (Bồ-đế vốn chẳng cây – Gương sáng cũng không đài – Xưa nay không một vật – Bụi trần bám vào đâu?).    
 
Qua hai bài kệ ta biết “Minh kính đài” tức là “Đài gương sáng”. Trong thơ Ngã Du Tử nói: “Trước Minh Kính Đài” thì phải hiểu  tác giả không phải là Minh Kính Đài. Vậy Minh Kinh Đài là nơi mà nhà thơ ước vọng đến để soi mình vào đó. Nó có thể là Niết Bàn hay bồng lai tiên cảnh nào đó. Dầu nó là tên  gì thì nó cũng chính là “Đỉnh Non Ca”  trong thơ Ngã Du Tử, vì nơi đó sẽ là “Vườn Mộng” có ta và có cả em:
                
                Là em xin cứ ăn năn
                 Niềm vui thành nụ trước sân sau nhà
                 Một mai lên đỉnh non ca
                 Bao nhiêu vườn mộng có ta với người.
 
Chương 8: Nghi Tâm có 72 câu thơ lục bát.
 
Chương thơ nầy dài nhất trong 10 chương của “Chơi giữa Thường hằng”.
Nhà thơ đã thử từ giã cõi rong  chơi,  nhập cuộc trần gian để “Tìm vui trong những đắng cay”:
 
                    Tạ từ hạt bụi mây ngàn
                    Về đầy tụ với trần gian vơi đầy
 
Và ở chốn đắng cay  đó, nhà thơ mới ngộ ra nhưng điều trong nhân thế:
 
                      Chiều nay giữa chợ thình linh
                      Lắng nghe mới hiểu sự tình oan nghi
                      Đêm về chiêm nghiệm thị phi
                      Trần gian lắm mộng kẻ đi, người về.
 
Có lẽ nhở nhập thế mà những “nghi tâm” được sáng thực, được hiểu hết trong lòng tác giả:
 
                         Lắng tâm nghe thấy ngọn nguồn
                         Hiểu ra sẽ biết tiếng vuông tròn dần.
 
Chương 9: Chuyển Hóa có 40 câu thơ.
 
Đọc  8 chương thơ  của “Chơi Giữa Thường Hằng” ta hiểu ra được thật sự đó không phải là một cuộc rong chơi vô bổ, mà đó là một  quá trình dày công tu tập. Từ đó mới có chương 9 là chương lấy đề tài “Chuyển Hóa”.
Chuyển hóa tiếng Tây Tạng là Lo-Jong, có nghĩa đen là “huấn luyện tâm”, ngụ ý nói về một thứ kỷ luật nội tại, nó là điểm chính yếu của sự chuyển đổi tấm lòng và tâm trí để đạt được chân lý và hạnh phúc.
 
Ngã Du Tử đã viết về sự chuyển hóa như sau:
                   
                   Pháp ngôn chuyển hóa bàn chân
                    An nhiên trú ngụ giữa thân tâm hồng
                    Mặc đời trong đục bão giông
                    Có đi có đến, không mong không cầu.
 
Chương 10: Thắp Đuốc Chơn Tâm có 12 câu thơ.
 
Có câu “Chơn tâm là Phật, Phật tức chơn tâm”. Vậy chơn tâm chính là tánh thiện  trong lòng ta vậy. Ngã Du Tử tất nhiên không phải là Phật  nhưng khi đã nhờ pháp ngôn chuyển hóa thì tánh Phật hay tánh thiện có trong người. Từ đó cái tâm từ bi trở nên hăng hái hơn,  muốn  “Thắp ngọn đuốc chơn tâm” mà soi sáng cuộc đời.
Khi tâm hồn được chuyển hóa, chơn tâm cho ta nhìn đời bằng con mắt lạc quan:
                            
                      Độ này ngắm áo quan san
                      Nhẹ như mây, rộng như ngàn biển khơi
                      Nắng lên từ phía mặt trời
                      Chân tâm bừng sáng giữa thời nhiểu nhương.
 
Khi ngọn đuốc chơn tâm được thắp lên trong lòng thì tình thương hiển hiện, người thơ muốn đem ngọn đuốc chơn tâm  của mình soi đường  nhân thế để
“Gọi người an trú qua cầu nhân gian”:
                      
                       Còn chăng chỉ một chữ tình
                       Thì thôi hãy sống chân thành trước sau
                       Một đời thấm đẩm bể dâu
                       Gọi người an trú qua cầu nhân gian.
 
Phải nói rằng “Chơi Giữa Thường  Hằng” là một tập trường  thi như ánh trăng rằm. Từng câu thơ lục bát mượt mà như ca dao, hạn chế Phật ngôn, ít dùng thiền ngữ nhưng  ý vẫn trong, nghĩa vẫn sáng,  đưa tâm thức đi vào cõi huyền vi an tịnh.
 
Châu Thạch không là Phật tử, không am hiểu giáo pháp, chẳng là nhà phê bình văn học, chỉ yêu thơ hay và viết cảm nhận vì những rung động trong lòng mình.
 
Chắc chắn là có sai nhiều, không nói là viết bậy. Kính mong chư vị bạn đọc và tác giả lượng tình tha thứ những điều  gì sai phạm, lầm viết trên đây.
                                   
Châu Thạch

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét