Nhận tập thơ của Ngã Du Tử tặng đã hơn ba
năm, nó đi theo tâm trí tôi suốt ba năm. Viết về nó? Không đủ trình độ !
Không viết về nó? Nó như bức tranh Giáng Tiên của chàng Tú Uyên treo
ngay trên tường nhà tôi. Nàng tiên phải bước ra thì mới thỏa lòng ao
ước của tôi!
Vậy thì hôm nay tôi liều viết. như liều
mời nàng tiên ra vậy. Viết xong sẽ gởi tấm lòng cho gió cuốn đi như nhạc
Trịnh công Sơn, nó đến đâu thì cứ đến, hoặc nếu nàng tiên bỏ tôi đi
biệt về Trời thì cũng thỏa lòng.
“Thường hằng” là gì? Theo nhà thơ Ngã Du
Tử: “Mỗi hành trình một đời người trú ngụ trên trần gian đều chứng
nghiệm muôn màu muôn vẻ của sinh lão bệnh tử, của thành trụ hoại diệt.
Cái ấy khái niệm của Phật giáo là thường hằng”. “Vô thường là dịch biến,
ngược lại là thường hằng. Vậy thường hằng là bất biến. Vô thường được
giải thích nôm na như sóng, sóng là vô thường còn nước là thường hằng,
mặc dầu sóng là do có nước mới sinh ra”
Vậy chơi giữa thường hằng là gì? Có lẽ
cũng phải dùng lời tác giả để giải thích cho dễ hiểu hơn: “Quay về cõi
tâm linh đễ tìm cho mình chốn an bình cho tâm thể”. “Nương vào diệu
pháp”, “làm nhẹ nhàng cho tâm thức lẫn tâm thể”, “Cảm thấy thật bình yên
trong đối đãi cho từng mỗi người trong thế gian muôn mặt”.
Trường thi “Chơi Giữa Thường Hằng” được
chia ra 10 chương, mỗi chương có một đề tài riêng biệt. Tác giả muốn
trong mỗi chương, người đọc nhận dạng từng hoàn cảnh đối đãi với tha
nhân trong hành trình của đời người được hội ngộ cùng nhau.
Chương mở đầu: Vương Vấn!
“Vương Vấn” có 36 câu lục bát. Mở đầu
cuộc rong chơi bằng những câu thơ vương mang bến tình, vương mang vần
trăng cổ độ. Một lần gặp em đã trở nên một nhánh phù sinh trong cuộc
sống:
“Ta về ngắm khóm vô ưu
Gặp em trên nhánh ưu tư phận mình
Ô hay một nhánh phù sinh
Còn bao nhiêu mộng phiêu linh rợp ngày.”
Chương 2: Quán Chiếu.
“Quán Chiếu” có 40 câu thơ. “Em từ quán chiếu sang ngôi/ Vầng mây mở lối bên đồi tịnh yên”. Vậy quán chiếu là gì? Quán
chiếu là nhìn thật sâu vào vấn đề gì đó, soi rọi lại Tâm của mình bằng
trí tuệ để tìm ra chân lý. Quán chiếu là một Quá trình tư duy. Sự phân
tích, tổng hợp, dựa vào kinh nghiệm bản thân, quan sát chung quanh mình,
soi rọi để thấy rõ … Như vậy gọi là quán chiếu.
Nhà thơ Ngã Du Tử đã khuyên em từ quán
chiếu bước ra, nghĩa là đã nhìn thấy được lẽ thật, thì đừng “Ngập chìm
trong cõi u mình/Ngàn năm nào biết sự tình mù khơi” mà phải biết sống
chơi giữa thường hằng để cho đường đời ta trở thành “Đường đi có ngát
trầm hương thế tình”. Phải chơi giữa thường hằng và chơi như Ngã Du Tử:
Không còn canh cánh âu lo
Núi sông tự tại giữa bờ thực hư
Ta về khoác áo chân như
Gối lên Bắc Đẩu làm thơ theo mùa.
Chương 3: Thơm Áo Đường Mây có 24 câu thơ.
Em từ thơm áo đường mây
… Tưởng rằng hạnh phúc cùng vinh quang về
Giả hình giả tưởng u mê
Cứ vui vọng niệm bên lề khói sương.
“Thơm Áo Đường Mây” là những vần thơ
cảnh tỉnh em Linh hồn em đang đắm đuối trong vinh quang phù phiêm. Em
phải nhớ răng, tất cả chỉ là vui trong vọng niệm và ngàn kiếp cũng sẽ
trở thành khói sương tất cả.
Chương 4: Triền Phược gồm 60 câu thơ.
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, ngài nhắc nhở các Tỳ-Kheo phải tránh 5 tâm hoang vu và đoạn tận 5 tâm triền phược.
Năm tâm hoang vu là sự nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng, nghi ngờ học giới nhà phật và những điều không hoan hỷ trong lòng.
Năm tâm triền phược là thích lạc thú trần
gian, luyến ái tự thân , đam mê sắc dục, ham thích ăn ngủ, muốn thành
thần thành thánh.
Nhìn chung năm triền phược là năm yếu tố
ham muốn khiến tâm thức bị dinh mắc, bị trói buộc rơi vào mê mờ, quay
cuồng, khổ đau, không thanh thản và không an lạc.
Bằng 6o câu lục bát “trong như tiếng
hạt”, Ngã Du Tử đã chỉ cánh cửa căn nguyên cho tha nhân có căn cơ thì
“Miệt mài chăm bón chân như hiển bày” bỏ đi triền phược, hầu cho người
thế gian ai được “hưởng phước này là vui”:
Căn nguyên chỉ một chữ từ
Miệt mài chăm bón chân như hiển bày
Hạnh thơm bay ngược gió lay
Thế gian ai hưởng phước này là vui.
Chương 5: Dụng Tâm có 52 câu thơ lục bát.
Ta về lên vọng lầu xưa
Thâm kinh vô tự cho vừa nhíp tâm
Bi trí dũng ngắm ánh rằm
Tròn vành vạnh một đêm trăng ngọn nguồn.
“Kinh vô tự” là kinh gì? Phải chăng là
“Bất lập văn tự/ Giáo ngoại biệt truyền/Trực chỉ nhơn tâm/Kiến tánh
thành Phật.”. Phải chăng Ngã Du Tử đã khuyên ta thiền, Người theo Phật
phải dụng cái tâm để hành thiền thì mới xé toạt màng vô mình để kiến
tánh. Khi kiến tánh rồi thì chứng ngộ chân lý y nguyên như câu thơ
“Tròn vành vạnh một đêm trăng ngọn nguồn.” mà Ngã Du Tử đã viết vậy.
Chương 6: Trang Đời Lần Giở có 36 câu thơ.
Trang Đời không phải chỉ đời nầy mà mỗi
kiếp sống một trang đời. Ngã Du Tử muốn em, muốn ta, muốn thế gian sống
sao cho trang đời thật đẹp. Dầu đời có “tiền kiếp đắng cay”, dầu đời có
“Nghiệp duyên theo mãi hành trình trôi xuôi” thì khi giở trang đời ta
vẫn tìn thấy được:
Niềm vui chảy với ngàn sông
Về cùng biển sẽ hòa cùng nhân gian
Cung vui bật dậy thênh thang
Tung tăng nhảy múa tràng giang liên hồi.
Chương 7: Trước Minh Kính Đài có 36 câu thơ
Hai bài kệ
dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học,
được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực ở khắp nơi.
Bài của Thượng tọa Thần Tú:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
(Thân là cây bồ-đề – Tâm như đài gương sáng – Phải luôn lau chùi sạch – Chớ để bụi trần bám).
Bài của Lục tổ Huệ Năng;
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
(Bồ-đế vốn chẳng cây – Gương sáng cũng không đài – Xưa nay không một vật – Bụi trần bám vào đâu?).
Qua hai bài kệ ta biết “Minh kính đài”
tức là “Đài gương sáng”. Trong thơ Ngã Du Tử nói: “Trước Minh Kính Đài”
thì phải hiểu tác giả không phải là Minh Kính Đài. Vậy Minh Kinh Đài là
nơi mà nhà thơ ước vọng đến để soi mình vào đó. Nó có thể là Niết Bàn
hay bồng lai tiên cảnh nào đó. Dầu nó là tên gì thì nó cũng chính là
“Đỉnh Non Ca” trong thơ Ngã Du Tử, vì nơi đó sẽ là “Vườn Mộng” có ta và
có cả em:
Là em xin cứ ăn năn
Niềm vui thành nụ trước sân sau nhà
Một mai lên đỉnh non ca
Bao nhiêu vườn mộng có ta với người.
Chương 8: Nghi Tâm có 72 câu thơ lục bát.
Chương thơ nầy dài nhất trong 10 chương của “Chơi giữa Thường hằng”.
Nhà thơ đã thử từ giã cõi rong chơi, nhập cuộc trần gian để “Tìm vui trong những đắng cay”:
Tạ từ hạt bụi mây ngàn
Về đầy tụ với trần gian vơi đầy
Và ở chốn đắng cay đó, nhà thơ mới ngộ ra nhưng điều trong nhân thế:
Chiều nay giữa chợ thình linh
Lắng nghe mới hiểu sự tình oan nghi
Đêm về chiêm nghiệm thị phi
Trần gian lắm mộng kẻ đi, người về.
Có lẽ nhở nhập thế mà những “nghi tâm” được sáng thực, được hiểu hết trong lòng tác giả:
Lắng tâm nghe thấy ngọn nguồn
Hiểu ra sẽ biết tiếng vuông tròn dần.
Chương 9: Chuyển Hóa có 40 câu thơ.
Đọc 8 chương thơ của “Chơi Giữa Thường
Hằng” ta hiểu ra được thật sự đó không phải là một cuộc rong chơi vô bổ,
mà đó là một quá trình dày công tu tập. Từ đó mới có chương 9 là
chương lấy đề tài “Chuyển Hóa”.
Chuyển hóa tiếng Tây Tạng là Lo-Jong, có
nghĩa đen là “huấn luyện tâm”, ngụ ý nói về một thứ kỷ luật nội tại, nó
là điểm chính yếu của sự chuyển đổi tấm lòng và tâm trí để đạt được chân
lý và hạnh phúc.
Ngã Du Tử đã viết về sự chuyển hóa như sau:
Pháp ngôn chuyển hóa bàn chân
An nhiên trú ngụ giữa thân tâm hồng
Mặc đời trong đục bão giông
Có đi có đến, không mong không cầu.
Chương 10: Thắp Đuốc Chơn Tâm có 12 câu thơ.
Có câu “Chơn tâm là Phật, Phật tức chơn
tâm”. Vậy chơn tâm chính là tánh thiện trong lòng ta vậy. Ngã Du Tử tất
nhiên không phải là Phật nhưng khi đã nhờ pháp ngôn chuyển hóa thì
tánh Phật hay tánh thiện có trong người. Từ đó cái tâm từ bi trở nên
hăng hái hơn, muốn “Thắp ngọn đuốc chơn tâm” mà soi sáng cuộc đời.
Khi tâm hồn được chuyển hóa, chơn tâm cho ta nhìn đời bằng con mắt lạc quan:
Độ này ngắm áo quan san
Nhẹ như mây, rộng như ngàn biển khơi
Nắng lên từ phía mặt trời
Chân tâm bừng sáng giữa thời nhiểu nhương.
Khi ngọn đuốc chơn tâm được thắp lên
trong lòng thì tình thương hiển hiện, người thơ muốn đem ngọn đuốc chơn
tâm của mình soi đường nhân thế để
“Gọi người an trú qua cầu nhân gian”:
Còn chăng chỉ một chữ tình
Thì thôi hãy sống chân thành trước sau
Một đời thấm đẩm bể dâu
Gọi người an trú qua cầu nhân gian.
Phải nói rằng “Chơi Giữa Thường Hằng” là
một tập trường thi như ánh trăng rằm. Từng câu thơ lục bát mượt mà như
ca dao, hạn chế Phật ngôn, ít dùng thiền ngữ nhưng ý vẫn trong, nghĩa
vẫn sáng, đưa tâm thức đi vào cõi huyền vi an tịnh.
Châu Thạch không là Phật tử, không am
hiểu giáo pháp, chẳng là nhà phê bình văn học, chỉ yêu thơ hay và viết
cảm nhận vì những rung động trong lòng mình.
Chắc chắn là có sai nhiều, không nói là
viết bậy. Kính mong chư vị bạn đọc và tác giả lượng tình tha thứ những
điều gì sai phạm, lầm viết trên đây.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét