Tôi
được chuyển về thị trấn T dạy học. Ngày ấy thị trấn mới thành lập được dăm
năm,dân cư chưa đông lắm nên với túi tiền giáo viên quèn tôi vẫn có cơ hội mua
được một căn nhà trong hẻm hợp với sở thích của mình. Con đường hẻm ấy rộng vừa
đủ cho hai xe ô tô không lớn lắm tránh nhau. Không xa qúa cho những nhà hai bên
đường dễ dàng qua lại giao tình gần gặn thân mật như láng giềng nơi thôn dã .
Tiếng là khu phố
nhưng nhà cửa vẫn còn xuềnh xoàng tre lá, cư dân đều là những người lao động
nghèo, ai nấy đều chung một cách thức sinh hoạt xô bồ, không xã giao kiểu cách,
mọi chuyện hay dở của mọi nhà cứ bô lô ba la ngoài cửa miệng. Nhờ vậy tôi đến ở
chưa đầy tuần lễ đã có thể biết được một
cách đại khái gần hết mấy gia đình cá biệt trong khu phố. Tỉ như nhà bên phải nhà tôi là của anh tư Bòn
tính hay nhặt nhạnh những đồ cũ hàng xóm bỏ đi đem về tỉ mẩn sửa chữa lại cho
các con dùng tạm, bởi vợ chồng anh nghèo qúa lại đông con. Đông con nhưng cô vợ
anh cứ ngồn ngộn đẹp một cách rất chi là phồn thực cho nên sau này mới xẩy ra
nhiều rắc rối tôi sẽ kể ở phần tiếp theo chuyện này. Riêng bọn con cái anh ta tuy thất học nhưng cho đến lúc này
chưa có đứa nào vướng víu với tụi lưu manh
bụi đời ngoài chợ. Hay xế bên kia đường về phía trái là nhà lão tư Bốc
vác độc thân, năm trước vợ lão bỏ đi mất tăm vì lão qúa vũ phu, ngày hai cữ
nhậu say mèm, ca hết bài vọng cổ buồn đời lại lôi vợ ra làm cái bị tập đánh bốc chơi cho hả giận. Lão hay
khoe khoang từng là võ sư đai nọ đai kia, nhưng chưa hề thấy lão đánh đấm với
ai ngoài mụ vợ hom hem nhàu nhĩ như dẻ rách. Mà dù có võ thực thì với thân hình
nhỏ thó, dúm xương tách thịt, mắt lác còn nửa con ngươi thì lão đánh nổi ai. Của đáng tội cũng có vài
người lạ nể sợ lão có lẽ ở cái bộ râu trên dầy và đen nhánh như đuôi chó mực
luôn tạo cho vẻ mặt lão có cái sát khí gườm gườm dễ sợ của tụi xã hội đen trong
phim ảnh. Lão có thằng con trai mười hai tuổi chuyên ăn cắp vặt, đầu năm nay
phải đi tập trung trên trường giáo dưỡng ba năm nữa mới được về. Bây giờ hàng
ngày lão ra chợ mang vác cá tôm rau củ cho các chủ sạp, nhưng chả ai muốn thuê
vì lão có tật hay chuyển “nhầm” đồ vào
giỏ của mấy thằng ăn cắp cùng băng với con lão. Cả khu này ai cũng biết lão
đang bị đói, đói rã mép vì có nguồn thu nhập nào đâu. Ngày ngày chỉ sống nhờ
vào bọn trẻ bạn cùng băng với con lão
đùm cơm thừa canh cặn của các nhà hàng mang đến nhà lão nhậu nhẹt, hát hò trai
gái gây ồn ào tới khuya mà cũng chả ai dám cự nự, dây vào. Chỉ khổ cho bác Ba
già hưu trí nhà ngay sát nách với nhà lão. Ông già này có nhiều nét sinh hoạt
khiến tôi để ý ngay từ bữa mới về đây cư ngụ. Có vẻ thu nhập của ông vào loại
khá nhất xóm này. Trước đây ông là viên chức bưu điện huyện. Nghỉ hưu trí được
chục năm rồi. Bà vợ ông qua đời đã vài chục năm nay. Tuổi ông đoán chừng ngoài
bẩy mươi một chút. Dáng người nho nhã, đi lại ý tứ, nói năng nhỏ nhẹ. Ra dáng
người có học. Ông có hai con gái đã thành gia thất . Một lấy chồng xa tôi chưa
gặp mặt. Còn một công tác gì đó ở một viện khoa học trên thành phố Hồ chí Minh.
Chủ nhật, thứ bẩy thi thoảng vợ chồng họ có về thăm bố. Lần nào cũng đi bằng xe
du lịch sang trọng nhưng cử chỉ giản dị thân mật dễ gần với mọi người. Ông ở
một mình một ngôi nhà nhỏ, sân xướng sạch sẽ không mấy khi có cọng rác. Đặc biệt
vườn nhà ông tuy nhỏ nhưng toàn cây ăn trái mùa nào thức ấy trái trĩu trịt
cành.
Tôi
được là bạn vong niên với ông từ buổi chiều sau năm sáu ngày gia đình tôi tàm
tạm ổn định chỗ ở mới. Bữa ấy hai bố con tôi đang ngồi hóng mát trên chiếc ghế
đá của chủ cũ để lại vẫn tại vị cạnh búi tre la ngà thẳng chuốt mấy chục thân
vàng óng, gốc mọc ngay cạnh cổng,ngọn rủ xòe tán lá xanh trùm bóng mát suốt
ngày . Từ xa đã thấy ông đang đi đâu về,
nhè nhẹ bước từng bước ngắn về phía chúng tôi, nách kẹp tờ báo và mái đầu mầu
trắng xóa cúi bất động gần như vuông góc với tấm áo nâu che bộ ngực lép kẹp.
Đến gần, ông chủ động chào trước rồi xoa đầu con tôi khen cháu dễ thương qúa.
Đoạn ông niềm nở giới thiệu:
-
Bác ở nhà trước mặt, rảnh rỗi mời sang chơi. Biết cậu giáo về làm dân xóm này
cả tuần lễ mà chưa sang chào được, thật tình xin lỗi.
Tôi
vừa kịp đứng lên đáp lễ thì ông đã quay ra cẩn thận đi ngang qua đường trở
về mở toang hai cánh cửa giữa ngôi nhà
ba gian làm theo kiểu cổ mặt tiền đối diện với nhà tôi. Đèn trong nhà vừa bật
sáng thì từ bên ấy bỗng vọng đến tai tôi chùm âm thanh vừa buồn buồn vừa náo
nức của một bài hát cổ điển phương tây phát ra từ chiếc máy quay đĩa than có
niên đại ra đời gần bằng tuổi bài hát, hình như bản Sông Đa nuýp xanh của Johann Strauss thì phải. Trưa hôm sau cha
con tôi sang nhà thăm ông. Dưới bóng mát cây mận đang kỳ đỏ rực trái chín là
một bộ bàn ghế đá mài, ngồi ở đó đã có mấy cụ già đang chụm đầu đâu cờ tướng.
Thấy tôi, ông Ba vội đứng dậy xin phép các bạn tiếp tôi trong nhà. Được ngắm
nhìn cách bài trí giản dị gian khách nhà ông, tôi càng thêm cảm mến và củng cố thêm nhận định ông là một con
người có học, có văn hóa như tôi vừa sơ sơ phán đoán. Thằng con trai tôi mê cây
mận qúa cứ len lén kéo áo cha chỉ trỏ, biết ý, ông bảo cháu ra lấy cây sào ông
dựng ngoài đó, ăn được bao nhiêu tùy thích. Rồi giải thích thêm:
-
Mùa nào cũng trái đầy cây, tôi già có thiết ăn đâu. Bọn trẻ hàng xóm ăn cho cả
đấy. Mấy bữa rày có hội lau nhau bên chú Tư bốc vác không kiếm được mồi nhậu
sang hái cho cả rổ, không thì rụng đầy sân.
Tôi
nhìn ra cây xoài giữa vườn đã vào hàng cổ thụ, từng chùm trái cỡ nắm tay trẻ
con đang trở nên già, sắp chín. Khoanh đất quanh gốc cây sạch bóng và mịn phẳng
như sân cho gà vịt ăn mỗi sáng. Ông kể thêm cả cây soài cùng cây mận đều do tay
bà ấy nhà tôi trồng từ buổi mới về đây lập nghiệp. “Hơn ba chục năm rồi cậu
giáo ạ”. Giọng ông ngùi ngùi có nhiều dấu hiệu của người già đa cảm nhiều tâm
sự.
Từ
buổi ấy, dần dà cha con tôi và ông hàng ngày gặp gỡ tri kỷ đủ mọi cung bậc nỗi đời.
Con tôi thích nhà ông vì có nhiều trái cây trong vườn, còn vì sân nhà ông lúc
nào cũng ríu ran nhiều chim sẻ qúa. Chúng cứ tự nhiên như gà nhà, bay lên lượn
xuống xập xoè vui mắt. Tôi thì mê ông vì nhiều điều răn bảo và nhiều câu chuyện
rất đỗi thú vị, rất đỗi là đời Biết tôi
sẵn nặng tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, có lần ông hỏi thẳng:
-
Cậu giáo có biết hiện tượng nhiều học sinh bây giờ có vẻ không tôn kính thầy cô
bằng lứa học trò thời cổ hủ chúng tôi không? Rồi ý tứ ông tự trả lời:
-
Hình như … cậu giáo bỏ qua cho, hình ảnh một số thầy cô bây giờ trong mắt học
trò nhếch nhác qúa, nhếch nhác đến độ không thể chấp nhận được, thế mà vẫn cứ
hàng ngày lên bục giảng.
Lần
khác ông chất vấn tôi:
-
Khẩu hiệu Tiên học lễ – Hậu học văn xưa nay đều kẻ to viết đậm trên tường các
trường học, thời nay người ta giải thích cặn kẽ, cụ thể cho cậu giáo những nội
dung gì? Hình như mông lung qúa phải không?
Chuyện
gì ông cũng thủng thẳng đệm hai từ hình như. Chẳng khẳng định gì mà lý sự của
ông khó mà bác bỏ. Được nhiều lần ông mở nỗi lòng bộc bạch với tôi những trăn
trở thế sự hàm chứa nhiều yếu tố văn hóa với một tâm tư đầy trách nhiệm như
vậy, tôi hiểu ra con người này có nhiều đức tính cho cha con tôi cảm phục và
gắng công học hỏi cả đời dễ gì theo được.
Cho
đến một hôm trời mưa không to nhưng cứ lất phất rỉ rả cả ngày không ngớt hạt
lúc nào. Thời tiết rất khó chịu, đi dạy về lòng vô cớ buồn không thể nào ngủ
được, tôi lò dò định sang ông chuyện vãn. Bên này đường tôi đã thấy ông đứng
sẵn đầu hè từ lúc nào, toàn thân dính sát vào vách tường, đầu nghiêng nghiêng
về phía cuối vườn vẻ như đang chăm chú theo dõi động tĩnh nhà lão Tư bốc vác.
Thoáng thấy tôi dợm bước sang đường, một tay cầm cái chén nhôm, tay kia ông khoát lia lịa về phía tôi
có ý bảo hãy quay về. Một cử chỉ có phần bất nhã tôi chưa thấy ở ông từ khi
quen biết. Tôi trở về lòng đầy băn khoăn, định bụng ngày mai sẽ gặp ông hỏi cho
ra nhẽ. Nhưng ngay tối hôm ấy ông sang nhà tôi, chưa kịp ngồi ông đã rối rít
xin lỗi và thì thào bí mật tiết lộ cái lý do kỳ quặc lúc ban trưa. Hình như ông
sợ có người không tin tưởng nghe lỏm
được:
-
Chuyện là thế này cậu giáo ạ! Cuối mùa mưa năm ngoái, bỗng đâu có trận mưa rào,
lại trái khoáy đổ thêm rét nữa. Thời tiết như vậy người ta có đủ cơm ăn áo mặc
còn khổ nữa là giống chim. Tôi tự nhủ như vậy rồi để ý quan sát đàn chim sẻ làm
tổ trong vườn, trong các hốc kèo nhà tôi, thấy chúng rét mướt, ướt át cứ đứng
chụm vào nhau trên mấy cành cây chịu mưa mà kêu líu ríu, con già, con nhỏ đều
một bộ dạng thảm hại lắm. Tôi nghĩ chúng rét thì đúng rồi. Còn đói nữa thì là
cái chắc. Giông gió suốt ngày thế này kiếm ăn làm sao được. Nghĩ thế, tôi lấy
nắm gạo len lén rắc dưới gốc xoài rồi ngồi rình xem chúng động tĩnh thế nào.
Ngày hôm đầu chúng không để ý. Trưa hôm sau mưa gió càng già, nghe chừng đói
qúa, một vài con dè dặt xà xuống mổ mổ thăm chừng. Thấy bình an, chúng kéo
xuống cả đàn mổ một lúc hết sạch nắm gạo tôi vừa thảy ra lúc sáng. Từ bấy đến
giờ, ngày nào tôi cũng cho chúng một vài nắm gạo. Nghĩ cũng là một cách bố thí chúng
sinh. Và gần năm nay đàn chim sẻ chẳng đi đâu, chúng sinh sản ngay trong vườn,
quen tôi như chim nhà vậy. Trưa qua cậu giáo sang chơi gặp lúc mưa gió tôi biết
chúng đói, cho thêm ít gạo, chúng đang ăn. Sợ bị đánh động chúng bỏ đi thì tội
nghiệp nên tôi có cử chỉ không lịch sự, mong cậu giáo bỏ qua cho.
Tôi
lại biết thêm một góc tấm lòng nhân hậu của ông với một cảm nghĩ vô cùng thán
phục. Nhưng còn cái hành vi cho chim ăn trong vườn nhà mình thì có gì phải giấu
diếm? Nghĩ vậy thôi, tôi cũng chẳng bận tâm tìm hiểu làm gì. Cho tới một chủ
nhật, vừa tinh mơ ông đã sang nhà tôi nhờ để ý trông giắng nhà cửa cả ngày cho
ông đi vắng thăm người bạn ở xa bị ốm. Tôi nhận lời nhưng thực tình chẳng cho
là quan trọng. Vì ban ngày ban mặt, vả ở khu này toàn người quen có gì phải đề
phòng. Nhưng chiều hôm ấy, ông vừa về tới cổng, chưa kịp mở cửa vào nhà đã tất
tả sang ngay tôi, ngồi bệt xuống mép hè thiểu não than thở liên hồi:
-
Tôi hại chúng rồi, tôi giết chúng rồi cậu giáo ạ.
Chưa
kịp hiểu ông hại ai? Giết ai? Tôi đã bị ông tóm tay lôi sang bên nhà chỉ cho
xem chỗ gốc xoài còn dãi bưỡi những lông chim mầu nâu nhạt trên mặt đất. Và
trong sân, trong vườn lúc ấy vắng ngắt không một bóng chim ríu rít chuyền cành
như mọi khi. Tôi à lên một tiếng đau xót hiểu ra sự tình. Đàn chim sẻ nhà ông
bị chúng dùng bẫy lưới chụp bắt hết rồi. Còn thủ phạm thì chính là cái lũ lưu manh đang ăn nhậu bên
nhà lão Tư bốc vác kia chứ ai. Chiều ấy nhà ông lạnh ngắt buồn như đang có đám
tang. Ông Ba và tôi cứ ngồi cạnh nhau lâu lắm. Tay
tôi nắm chặt tay ông không rời. Còn ông thì lúc bất động như pho tượng thiểu
não cúi thõng mái đầu tóc trắng, lúc thờ thẫn đưa mắt nhìn vạt đất chỗ gốc xoài
đã trở nên trống trải và im ắng khác thường, miệng không ngớt thất vọng thở
than :
- Tại tôi cả, tại tôi cả, tôi có tội với chúng
rồi. Giá như tôi không cho chúng ăn chỗ ấy thì đâu nên nỗi.
Trong
khi ấy bên nhà lão Tư không ngớt vang ra tiếng hú hét gầm gào đủ giọng con
trai, con gái đang cơn phấn khích. Trội hơn cả vẫn là cái tiếng nhừa nhựa của
lão già mắt hiếng, râu đuôi chó mực:
-
Đù má thằng mặt sẹo háu ăn, đã bảo từ từ
chọc huyết chúng hứng vào can rượu, không nghe.
Cái thứ rượu huyết chim sẻ uống vào là xung lắm. Thật uổng. Đù má! Giờ
mà có một ly thôi thì mấy con đĩ chúng bây đêm nay cứ là sướng rơn hết biết.
Tôi
lờ mờ nhớ ra mấy bữa trước từng trông thấy mấy đứa bọn chúng lấp ló bên bờ rào
chỉ trỏ sang vườn ông Ba. Lại bắt gặp một bữa lão Tư thó được đâu tay lưới cá
ngồi hì hụi khâu khâu buộc buộc vào cái vành tre cong cong. Cứ nghĩ chúng dùng
vào việc xúc tôm xúc tép chi đó ngoài sông kiếm ăn. Ai dè… Mà chim trời, cá
nước xưa nay có của riêng ai. Kiện cáo với ai bây giờ. Buồn vậy. Ông Ba ơi! Để xẩy ra cớ sự này tôi
cũng có phần lỗi lớn. Bởi tôi không dám nghĩ xấu về một số loại người để mà
cảnh giác. Tôi buồn lắm và tôi biết lắm, ông còn đau đớn, thất vọng hơn tôi vì
nhiều lẽ… Tuổi gần đất xa trời mà còn
chua chát thất vọng thì đau lắm. Tôi hiểu ông mà… ông Ba!
Vĩ
thanh. Sau buổi chiều buồn bã ấy mấy tháng, tôi được sở Giáo dục cử
đi học hai năm lấy bằng thạc sĩ. Hè về nghỉ ít ngày, chưa nóng chỗ,ông Ba bưu
điện đã tất tả sang chơi. Tôi thấy ông ngồi rọ rạy không yên. Đôi con mắt lim
dim ánh cười như muốn khoe ngay một tin gì vui lắm. Qủa nhiên mới nhấp một ngụm
trà ông bật nói như reo:
-
Tôi lại nuôi được lứa chim mới rồi cậu giáo ạ. Chưa đông bằng đàn trước nhưng
triển vọng lắm.
Chưa
dám hỏi ông không sợ bọn Tư bốc vác nữa sao, thì ông tiếp luôn:
-
Bọn nó bị công an bắt sạch cả rồi. Đâu như làm cái việc ma túy gì gì ấy. Nhưng
mà tôi vẫn cứ phải cảnh giác cho ăn trên sân thượng mái nhà. Phòng khi…
Tôi
hiểu ông muốn nói bọn ấy sẽ có ngày về. Và trong thâm tâm ông vẫn gờn gợn nỗi
lo sợ bất an một năm trước đó. Có lẽ ông đã đúng. Bởi tôi sẽ còn phải kể tiếp
chuyện buồn nhà anh Tư Bòn có dính dấp với chuyện lão Tư bốc vác sau này.
Nhưng
dù sao thì hiện thời khu phố chúng tôi vẫn cứ vui vì đàn chim sẻ vườn bác Ba
bưu điện vẫn được hàng ngày yên ổn xập xòe ríu ran cùng với ông già nhân hậu,
một thành viên của tổ dân phố nghèo nhưng giầu tình thân ái.
24/12/2010
VTK
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét