Quan huyện Hà Đảnh
trước giờ ngoài việc quan nha lại còn là một tay buôn bán lâm sản, thổ sản, thường
những chuyến ghe miền Nhà Bè, Long Hồ, Định Tường cặp bến Trảng Bàng để ăn
hàng, khách buôn đều là khách trú, ngoài việc bắt bớ tịch thu, Hà Dảnh còn dùng
bọn thổ hào mua rẻ của dân.
Sau bữa cơm với thịt cheo kho
sả ớt rất ngon miệng, đêm về chàng và ông cụ đem chiếc chỏng tre ra sân cùng ngắm
trăng uống trà. Xóm Truông Cây Mít có độ trên mười nóc gia gần nhau, nhà cửa
đơn sơ, dân cư ít ỏi mà có tinh thần đoàn kết để sống giữa nơi hoang vắng. Biết
cụ già có khách lần lượt những cụ già cùng xóm đến chơi, họ trải đệm xuống đất
giữa sân, đống un cạnh đó được bắt lên ấm nước trà rừng sôi sục, họ ăn khô nai
uống trà, món ăn quý nhất chỉ dùng để đãi khách vì chẳng có chi hơn. Càng về
khuya ấm trà càng đậm, nghĩa tình con người càng quyện chặt, các ông cụ luân
phiên bổ sung cho nhau những câu chuyện rừng, hấp dẫn bất tận.
– Đây
là Truông Cây Mít. Vì ở chỗ khúc quanh có một cây mít nài. Mít nài là một loại
mít ri72ng hoang dại, mít nài có một sức sống kỳ lạ, lớn rất mau, cùng lứa tuổi
với cây khác thì mười năm sau nó lớn gấp đôi, hai mươi năm lớn gấp ba, cứ thế
mà to dần. Khi các cây cùng tuổi chưa bằng vòng tay, thì mít nài hai người ôm
không hết. Nó là loại gỗ quý, bao lớn cũng có lõi, càng lớn lõi càng ra tận da.
Cái đặc biệt của nó là thịt gỗ xốp, nhẹ nhưng lại rất dẻo, rất bền, có thể để nằm
lâu năm trong đất khi đẽo ra vẫn còn nguyên rất tốt, những loài mối mọt không đục
phá như loại gỗ thường, đáng chú ý là các chùa miểu hay dùng gỗ này để tạc tượng
hoặc làm vật trang trí. Còn người dân thì chẳng một ai dám dùng gỗ mít nài cả.
Lê Sĩ Triệt hỏi:
– Tại
sao dân không dùng hở bác?
– Bác
cũng khó trả lời, vì người ta không giải thích được. Khi các vật dụng dùng
trong nhà như tủ, bàn ghế, thậm chí vách phên đóng làm bằng loại cây này, ngày
nắng cháy hay mưa dầm dề từ trong thớ gỗ có tiếng chuyển mình trèo trẹo, răng rắc,
có lúc kêu to bôm bốp, dù những khi ấy không có vật gì va chạm vào.
– Phải
chăng là do sự co giản của cây?
– Bác
cũng nghĩ như thế, sớ thịt cây này cấu tạo dạng chân tôm, nhiều lớp ngược xuôi,
ngang dọc mà không theo nếp thẳng nào, thớ thịt to mà thưa, chen trong đó có nhựa
luôn bao quanh nên luôn bóng bẩy, vì dễ hấp thụ khí trời, sự co giản của nó bị ức
chế trong các khuôn rập do cấu tạo của đồ dùng mới gây những tiếng động đột ngột
trong lúc co giản.
Vì gỗ mít nài quý hiếm, kích
thước to lớn để đáp ứng các yêu cầu khuôn khổ của người dùng, các lão thầy tu
muốn muốn được độc quyền sữ dụng loại gỗ quý ấy, họ đã dựng huyền thoại cho nó
là loại “cây ma” chỉ nên để cho các chùa sữ dụng mà thôi, thành thử dân thường
không ai dám sữ dụng.
Trái mít nài có gai như trái
mít nhà to bằng cổ bắp chân, múi mít nhỏ như ngón tay, trái chín có vị chua
chua, ngọt ngọt. Thân cây tròn trịa to lớn lại suông sẻ, ta hạ một cây mít nài
cùng một loại cây khác thì mít nài cho ta khối lượng gỗ dùng gấp hai, ba lần
cây thường.
Nơi đây là Truông Cây Mít Nài,
qua nhiều đời được gọi đơn giản là Truông Cây Mít và có thể về sau người ta sẽ
loại bỏ bớt cho giản tiện và kêu bằng Truông Mít không chừng. Ở bìa truông có
năm sáu gia đình phá rừng làm rẫy sinh sống. Về hướng đông qua đồng trảng lớn
có một giòng suối, được gọi là Suối Nhánh. Từ bìa xóm đi bộ hai trống canh là đến
thành cổ Bàu Đồn. Ở Truông Cây Mít thỉnh thoảng lại xuất hiện con cọp vằn vắt
khăn về phá, bắt heo, bắt chó có khi giết cả trâu bò. Nếu không trừ được thì có
lẽ xóm này sẽ bỏ dời đi nơi khác.
Lê Sĩ Triệt nói:
– Hồi
còn ở chùa con có nghe nói đến con cọp này, nó phá khuấy nhiều nơi, bắt cả người
nữa.
– Con
cọp vắt khăn này tinh khôn lắm, nó hung dữ vô cùng thường hay mò vào xóm bắt
chó, bắt heo, trâu bò, có khi ăn cả thịt con người. Tầm hoạt động rộng lớn hung
bạo gần bằng một đạo binh nhỏ. Khắp vùng từ Hố Bò, Xóm Ươm, Bùng Binh, Bời Lời,
Bàu Găng, Bố Bịt, Nước Đục, Bến Buôn, Suối Nhánh và Truông Cây Mít này nơi nào
cũng có vết chân. Nếu đêm này nghe nó ở Truông Cây Mít thì khoảng năm bảy hôm
sau, nghe nó xuất hiện ở miệt Hố Bò. Cứ thế mà luân chuyển dời chỗ. Một con thú
tinh khôn, nhiều thợ săn tổ chức truy tầm nhưng không gặp được vì không biết
hang ổ nó ở đâu và sự đi lại của nó thế nào?
Cách đây ba năm một vụ cọp giết
người rùng rợn mà cũng buồn cười, Ba Lù và Năm Béo là hai tên thổ hào ở vùng Bến
Buông, nhò khéo a dua, nịnh cùng quan huyện Quan Hoá nên được ban chức quản
thôn. Ở dọc con sông từ Bến Buông đến Bưng Bàng. Xứ này rãi rác có khoảng năm
mươi nóc gia chuyên sống bằng nghề lấy chai, đốt dầu con rái và đáng lờ, đánh lọp
dưới sông.
Hai thổ hào Năm Béo,
Ba Lù được quan chiếu cố ban chức quyền cho đều do lẽ đó.
Hai tên này nếu để
tách riêng ra thì cũng không có gì đáng sợ. Năm Béo tuy ranh ma nhưng dốt nát,
những mẹo vặt của hắn hay sự gian trá điêu ngoa cũng chỉ có mức độ nhỏ. Còn Ba
Lù biết võ vẽ chút đỉnh chữ nghĩa, nhưng là một tên liều mạng, vừa nịnh hót, vừa
có máu du côn. Chúng cùng gặp nhau dưới trướng quan huyện rồi dựa vào nhau, bổ
sung cho nhau hợp sức thành sức mạnh của bọn ác bá cường hào. Không ai thấy chức
quản thôn mà chúng được quan huyện ban cho lấy từ phẩm trật triều đình thời
nào. Có điều thấy được là sau khi được chức quan, chúng hí hửng, hỉ hả, hống
hách đáo để. Rồi cũng từ đó mà dân chúng khắp vùng luôn bị kiềm kẹp chén cơm tấm
áo bị đe doạ hàng ngày. Chúng bắt bớ người lượm chai trên rừng để tịch thu, hoặc
chúng mua không chịu trả tiền. Chúng nhờ huyện quan mà phất, quan huyện nhờ
chúng mà thêm giàu. Chỉ những người dân vùng Bến Buông lên Bưng Bàng là khổ,
không làm sao ngóc đầu lên được.
Nhân khi tên vệ sĩ
Chu Thiện được huyện quan phái đến hối thúc quản thôn đem giao nộp đủ số chai cục
và mật ong. Tên Năm Béo đi với một bộ hạ lội về Bến Buông truyền lệnh. Y bắt gần
hai chục người dân khiêng gánh những báu vật của rừng gồm có một ngà voi, mười
sừng nai, hai trăm mai rùa, hai cái mật gấu, năm trăm cân chai và ba mươi ché mật
ong đem về Bến Đợi. Bất ngờ y bị cọp vắt khăn vồ được, dân chúng hoảng chạy tứ
tán. Được hung tin, Ba Lù cùng vệ sĩ Chu Thiện mở cuộc truy lùng để lục soát
dành lại thấy Năm Béo. Khi gặp xác Năm Béo thì đã bị cọp moi mất tim gan và ăn
hết một bắp đùi. Khi dân phụ khiêng xác Năm Béo quay ra vừa hơn trăm bước,
không biết cọp nằm phục hồi nào, đoàng người khiêng thây đi qua có Ba Lù cậy
mình có võ nghệ nên đi sau yểm trợ. Từ bụi rậm ở gần lối đi cọp nhảy ra hạ thủ
Ba Lù. Mọi người vỡ mật bỏ cả xác Năm Béo mà chạy về. Mấy ngày sau, quan quân đến
mở cuộc truy lùng chỉ gặp được hai cái đầu lâu cùng mớ xuơng vụn đang bị dòi đục
khoét. Có người biết chuyện họ giải thích rằng theo tập tính của cọp thì khi bị
mất mồi, có muốn cướp lại hay bị địch thủ gây thương tích, nó muốn trả thù. Từ
điểm xuất phát cọp đi một vòng thật xa và rộng, rồi quanh lại nằm phục cạnh nơi
có vết nó mới đi qua, chờ cho địch thủ vô ý cứ đuổi theo vết máu nó sẽ phóng ra
vồ trả thù. Ai muốn theo dấu cọp phải đề phòng trường hợp đó, phải tổ chức
thành đoàn đi hàng ngang thì một là sẽ gặp cọp, hai là cọp sợ người phát hiện
mà tránh trước.
Việc ấy xảy ra ai cũng
nói đáng đời hai tên chó săn, nhưng có điều lạ là từ ấy đến nay cọp không giết
người mà chỉ bắt heo chó hay trâu bò mà thôi. Vì sợ cọp nên các vùng xa người
ta lấy cây lớn xóc kề nhau mà rào quanh nhà và làm cửa nẻo chắc chắn, còn ở đây
thì dùng mõ tre báo động. Khi có cọp xuất hiện, mọi người lao, ná xông ra tiếp ứng
cùng nhau. Nhưng thường là muộn hơn vì nó tinh khôn bỏ đi mất rồi, chỉ còn xác
con vật bị giết chết mà thôi.
Cuộc nói chuyện vui
vẻ kéo dài, nhưng ấm trà rừng cạn rồi lại đầy, đống lửa tàn được ném thêm những
khúc củi khô, lửa than rừng rực, xâu khô nai treo trên chái giàn bếp vơi dần và
hết nhẵn. Trăng mười bốn tháng giêng đã xế qua, từng đụn mây mỏng mảnh đuổi
nhau, chị hằng trông xuống trần gian, càng khuya càng sáng tỏ như muốn chia sẻ
tình nghĩa con người.
– Khuya
rồi, thôi về nghỉ, chú em và anh bảy suốt ngày đi đường mệt mỏi cũng cần nghỉ
ngơi.
Một ông trong các vị
khách nói rồi đứng lên, tất cả đứng theo. Những cái vỗ vai nắm tay trìu mến
thân ái khiến cho Lê Sĩ Triệt vô cùng xúc động. Bà con dân quê tốt quá, thân
tình quá. Có người vui vẻ rủ chàng ở luôn lại đây mà lập nghiệp, họ sẽ lo cưới
vợ cất nhà cho chàng. Tiếp cận với những con người chất phác, hồn nhiên dù cách
ăn ở giản dị, quần áo vải thô sơ, xấu xí, cuộc sống lam lũ, mặt nám tay chai,
nhưng tâm hồn và tình cảm của họ cởi mở trong sáng, thật thà đáng mến. Chàng định
bụng một ngày nào đó sẽ tìm về gặp lại số bà con ở Truông Cây Mít và đáp lại thạnh
tình của bà con dành cho chàng.
Trên chiếc chõng
tre đặt dưới mái hiên, chàng và ông cụ Bảy nằm yên, đầu óc nghĩ suy chập chờn nửa
mê nửa tỉnh. Bỗng có tiếng mỏ tre loạn xạ, tiếp theo cả xóm vang lên tiếng cốc
cốc liên hồi. Ông Bảy bật dậy:
– Cọp
về!
Bác đi vội vào
trong, xách cây dao bước ra. Lê Sĩ Triệt cũng tay huơ ngọn roi, cả hai chạy thẳng
đến nhà có tiếng mõ ban đầu.
Trong khoảnh khắc,
các thanh niên từ mười lăm tuổi trở lên đến cụ già sáu mươi, tay lao, tay mác đều
có mặt. Chủ nhà là một ông sồn sồn tuổi quá bốn mươi đang đứng giữa sân giải
thích với mọi người. Ngồi trên mép giường trong nhà, dưới ánh sáng ngọn đèn
chai, người đàn bà tay ôm con, miệng nói năng lập bập còn run rẩy, chú bé đang
bồng vẫn vô tư, huơ đôi tay vào không khí, miệng luôn toét ra cười.
Ông chủ nhà kể:
– Tôi
đang ngủ nghe bả la một tieng “oái”… rồi nín luôn, tôi lật đật chạy đến cửa thấy
bả bò không la bò, lết không ra lết, miệng mồm đánh bò cạp mở không ra. Tôi xốc
bả vào đặt lên sạp, nghe bả nói được có một tiếng c…ó..p mà không rõ ràng.
Tôi xách lao ra chảy
thẳng đến chuồng heo, thấy ông ta ba chân chấm đất, một chân trước bấu cứng con
heo trên lưng. Sẵn cây lao trên tay, thay vì đâm ổng, quýnh quáng tôi đập đại
lên mình. Cũng may, có lẽ cúng tay ông thầy, ổng buông rớt con heo. Khi đủ bốn
chân ổng nhảy thật lẹ. Chạy xa độ trăm bước ổng kêu lên “béo” một tiếng rồi mất
luôn.
Mọi người ra khiêng
con heo nặng cỡ ba chục cân đã bị móc họng chết. Trong cổ, những giọt máu còn
chảy ròng ròng. Đem về sân, họ xúm nhau nấu nước, cạo lông, xẻ thịt nấu cháo,
ăn chơi chuyện trò đến sáng.
Ông chủ nhà nói:
– Con
heo tôi nuôi để cúng cơm ông già, kỳ giỗ này chắc ông già tôi hẩm hút lắm.
Một chú thanh niên
nói:
– Con
heo còn nhỏ mỡ không bao nhiêu, mà ông thầy mới rớ vào, chưa kịp ăn đã khen
“béo”. Chắc ổng thèm thịt heo lắm giờ này ngồi đâu đó liếm bàn tay cho đỡ ghiền.
Mọi người cười rộ,
một cụ già khác bày vẽ:
– Lực
bộ ruột và cái đầu đưa vô ngay đường đi của ổng trong rừng để kiến cho ổng, để ổng
đừng phá xóm mình nữa.
Chú thanh niên tiếp:
– Cọp
chứ phải ông bà gì mà kiến với cúng. Bác cho nó ăn nó quen, mai mốt nó về tôi
chỉ lại nhà bác, chớ tụi tui không có của đâu mà cúng kiến.
Cụ già tức lên cải
lại:
– mày
nói ngang như cua bò. Vật khinh hình trọng, đừng nói chơi phạm thượng với ông
thầy, không nên.
Chú thanh niên cải
tiếp:
– Có
vậy mà cũng nói chữ nói nghĩa.
– Chữ
nghĩa gì?
– Ông
mới nói vật khinh hình trọng gì đó?
– Không
phải hả. Mình kiến cho ông thầy có cái đầu và bộ ruột, đó là vật khinh chớ có
gì lớn lắm sao? Ổng nhận vật lễ rồi ổng đi chỗ khác, xóm mình khỏi bị thiệt hại
là hình trọng chớ gì. Hổng phải hả?
– Không
phải đâu bác ơi.
– Chớ
làm sao mới phải hả? Thằng quỷ.
– Đó
là chuyện xử án. Chuyện vầy nè: Ngày xưa … có thằng ăn trộm. Nghe đồn ở nhà một
mụ già nọ có làm cái ống ngoáy bằng vàng. Anh ta định lấy trộm cái ống ngoáy
đó. Thấy bà già đi ngủ rồi bỏ ống ngoáy và trầu cau trong khay để trên bàn giữa
nhà. Anh ta nghĩ ống ngoáy bằng vàng thật thì không thể bỏ dễ dải như vậy. Có lẽ
cái bằng vàng bà ta cất kín trong chiếc giường hộc mà bà nằm lên trên. Nhiều
đêm đến rình như vậy, cuối cùng anh ta nghĩ cách phải cướp chớ không thể trộm.
Nhân lúc bà già nằm ngủ, anh lấy cái mền chụp phủ bà ta kín cả thân mình rồi đè
xuống cột lại, xô bà rơi xuống đất. Mở hộc giường lấy cái túi nhiễu có đựng ống
ngoáy. Bà già giảy giụa ló ra được cái đầu, nhờ ánh trăng mờ mờ rọi qua song cửa,
bà nhìn ra y là người cùng xóm, bà ta kêu tên điểm mặt, y sợ bà báo quan nên
quay lại lấy cây gài cửa nện một cái vào đầu, bà lão chết ngất. Tưởng bà đã chết
thật nên hắn bỏ đi, không dè bà lão giỏi chịu đòn nên không chết. Hôm sau bà đầu
đơn lên quan, anh ta bị bắt. Trước mặt quan, bà lão cho biết đó chỉ là vàng giả.
Dù không lấy được đồ thiệt, nhưng mắc tội ăn trộm và cố ý giết người nên quan
kêu án nặng. Anh ta lãnh án năm năm tù. Vật khinh hình trọng là như thế, cũng
như con cọp này, chỉ đi bắt một con heo nhỏ xíu, phải ông chủ nhà đừng quýnh
quáng lui cho anh chàng một mủi lao là bỏ mạng. Vật khinh hình trọng là vậy đó
cha ơi.
Ai cũng cười rộ,
riêng cụ già nọ nói khoả lấp:
– Cái
thằng hai nó đặt điều quá nhiều chuyện. Hết sức cho mày.
Từ ngày huyện quan
Hà Đảnh và đoàn tuỳ tùng du xuân, nghĩ rằng đã mấy năm qua ông không mở cuộc du
hành, trong xóm thôn chắc nẩy ra nhiều điều mới lạ, nên lúc ra đi ông càng hăm
hở nôn nóng. Đoàn xe ngựa vượt đường bộ Gò Dầu, chiều thì nghỉ lại bên Cẩm
Giang, hôm sau vừa tối thì đến An Cơ.
Trên đường đi, đến
đâu cũng thấy xóm làng xơ xác, nhà cửa dân chúng dường như khô kiệt, thiếu hẳn
cái tươi mát của ngày xuân. Trong những cánh cửa đóng kín không biết chứa đựng
những gì, chỉ thỉnh thoảng gặp ít cụ già ngồi dựa cửa ngó ra, vẻ mặt ưu tư hốc
hác. Đoàn xe ngựa của ông chỉ nhận được sự chào đón của những con chó hung dữ
theo đường mà thôi. Lòng chán nản, mất hứng thú. Đến Dinh điền An Cơ, quan được
viên đội suất do ông đặt ra để cai quản ở đây tiếp đón bằng thịt béo, rượu nồng.
Ông thuật lại và hỏi về cảnh trên đường đi, y chỉ trả lời vớ vẩn:
– Có
lẽ họ vào rừng hay ra rẫy làm ăn …
Không còn hứng thú,
huyện quan vơ vét một ít dược liệu, mai rùa, sừng nai, mật ong. May được thêm
ba cặp nhung và hai cái mật gấu. Hôm sau ông cùng đoàn tuỳ tùng trở lại. Không
muốn theo về đường cũ, ông ngủ đêm tại Chà Là, giờ ngọ ông đến Truông Cây Mít,
tâm trạng huyện quan chán nản, vẻ mặt uể oải, lầm lì ít nói làm cho bọn tuỳ
tùng càng chột dạ, dè dặt không dám tiếp xúc, bắt chuyện dù cùng đi, cùng ăn,
cùng nghỉ với quan.
Hai chiếc song mã
và hai vệ sĩ cởi ngựa đến gốc cây mít nài to lớn bên đường. Hà Đảnh hối thúc
đoàn người vượt mau, qua khỏi nơi đây chừng nửa dặm thì đến xóm thợ săn. Ở đó
có cơm nước nghỉ chân rồi tiếp tục lên đường.
Đoàn xe ngựa đang
chạy nước kiệu, bỗng nhiên những con ngựa dỏng tai khịt mũi ngó dáo dác rồi
chùn vó lại. Những con trong xe lồng lộn như muốn xé toạc chiếc xe để thoát ra
ngoài. Khi đám vệ sĩ và người xà ích đang ra roi la hét một cách vô hiệu thì bất
ngờ từ trong mé rừng một con hổ to lớn xông ra, nhảy thẳng phóng lên chụp người
xà ích đánh xe của quan huyện. Nhờ lanh mắt, anh xà ích té ngang rớt xuống bên
kia chiếc xe, con cọp chụp hụt bị vướng nằm ngang trên mình ngựa. Hai con ngựa
hốt hoảng phóng bay qua lề đường, anh xà ích cầm roi lồm cồm bò dậy miệng la cọp,
cọp … chiếc xe lật ngang xuống đường, càng xe đè lên mình cọp. Cọp nghiệp hai
con ngựa bị dây da bó cứng vào xe, không thoát được, hai con đầu chúi vào nhau
quay đít ra ngoài, chân liên tiếp đá bung lên sỏi cát. Quan huyện hồn phi phách
tán vì xe bị lật, lại quá gần con cọp, ông ta lết dần về mé sau chui ra được, bất
kể những vết đau cố chạy thục mạng để thoát thân. Trong khi đó, đám vệ sĩ bỏ bầy
ngựa bất trị, mạnh con nào con nấy chúi đầu vào bụi cây, hai chân liên tiếp đá
bổng lên trời, cát bay trắng xoá. Thấy cọp, tất cả cầm võ khí xông tới, con cọp
cũng vừa vuột ra khỏi càng xe. Trước đám người đông, cọp không nao núng, cúi đầu
sát đất gầm lên một tiếng vang đông lạnh lùng, một cuộc quần thảo giữa cọp và bốn
vệ sĩ diễn ra sôi nổi.
Cũng trưa hôm ấy,
sau khi cơm nớc xong, một số thanh niên và mấy cụ già cùng bác Bảy tiễn Lê Sĩ
Triệt ra đường cái. Trong khi mọi người đang bày tỏ cảm tình với chàng trai trẻ
bỗng nhiên đều giật nẩy mình vì có tiế`ng cọp gầm lên gần bên và tiếp theo là
tiếng người la hét. Bác Bảy hô lên:
– Cọp
đang bắt người, chạy tiếp tay với họ anh em ơi.
Vừa dứt lời, bác Bảy
xách lao chạy trước, Lê Sĩ Triệt tức tốc chạy vọt theo. Rồi mọi người kẻ ná, người
lao đổ về một hướng. Chạy vừa trăm bước thấy dáng một quan nhân khăn be, áo nhiễu,
đang phục phịch vừa chạy, vừa la, vừa nhìn lại mé sau. Nhìn xa lên thấy đám người
lúc dạt ra, lúc tụ lại, một con cọp to lớn đang tấn công từng người, tiếng hò
hét vang rần không biết phần thăng bại về bên nào. Còn vị quan nhân thấy người
đôg đầy chạy tới, ông ta an tâm dừng lại để thở vì quá mệt. Lê Sĩ Triệt vượt
lên thấy ông ta vừa chỉ vừa nói, tiếng được tiếng mất:
– Quý
vị ráng tiếp cứu người … cọp lớn quá, chút nửa tôi bị nó ăn thịt rồi.
Vượt qua vị quan
nhân, Lê Sĩ Triệt xông tới đấu trường, thấy hai người đã mệt, hơi thở ồ ồ, còn
hai võ sĩ kia khá hơn, bình tĩnh ra những đòn đánh vững vàng. Nhưng sức cọp thì
quá to, quá mạnh. Còn những con ngựa lại chèn đầu vào bụi rậm, miệng hí vang,
chân đá bổng ngược ra phía sau. Chàng nhớ lại lời thầy nói về tập tính của loài
ngựa, bây giờ chàng mới được chứng kiến. Nhìn cảnh tượng bi hài ấy, chàng mỉm
cười kêu lên:
– Các
anh ngừng tay nghỉ mệt, để tôi đánh cọp cho.
Vừa dứt lời, bác Bảy
xách lao chạy trước, Lê Sĩ Triệt tức tốc chạy vọt theo. Rồi mọi người kẻ ná,
người lao đổ về một hướng. Chạy vừa trăm bước thấy dáng một quan nhân khăn be,
áo nhiễu, đang phục phịch vừa chạy, vừa la, vừa nhìn lại mé sau.
Nhìn xa lên thấy
đám người lúc dạt ra, lúc tụ lại, một con cọp to lớn đang tấn công từng người,
tiếng hò hét vang rần không biết phần thăng bại về bên nào. Còn vị quan nhân thấy
người đôg đầy chạy tới, ông ta an tâm dừng lại để thở vì quá mệt. Lê Sĩ Triệt
vượt lên thấy ông ta vừa chỉ vừa nói, tiếng được tiếng mất:
– Quý
vị ráng tiếp cứu người … cọp lớn quá, chút nửa tôi bị nó ăn thịt rồi.
Vượt qua vị quan
nhân, Lê Sĩ Triệt xông tới đấu trường, thấy hai người đã mệt, hơi thở ồ ồ, còn
hai võ sĩ kia khá hơn, bình tĩnh ra những đòn đánh vững vàng. Nhưng sức cọp thì
quá to, quá mạnh. Còn những con ngựa lại chèn đầu vào bụi rậm, miệng hí vang,
chân đá bổng ngược ra phía sau. Chàng nhớ lại lời thầy nói về tập tính của loài
ngựa, bây giờ chàng mới được chứng kiến. Nhìn cảnh tượng bi hài ấy, chàng mỉm
cười kêu lên:
– Các
anh ngừng tay nghỉ mệt, để tôi đánh cọp cho.
Ngọn roi mật cật cầm
sẵn nơi tay, Lê Sĩ Triệt nhảy vào vòng đấu. Hai vệ sĩ quá mệt rút lui ra xa đứng
ngó vào, còn hai người khoẻ mạnh vẫn tiếp tục quần thảo với cọp. Một anh nói:
– Con
cọp hung dữ và mạnh lắm, anh bạn hãy coi chừng.
Gật đầu, Lê Sĩ Triệt
ung dung bước đến trước đầu con cọp. Chàng dứ mạnh ngọn roi định bụng gạt cho
nó lao vào sẽ trở tay quật lại để thanh toán. Không ngờ con cọp không mắc mưu,
nó lắc đầu nhe hàm răng nhọn, mọp sát đất hộc lên một tiếng vang rừng, đập đuôi
xuống đất, trong nháy mắt nó nhảy phủ vào người Lê Sĩ Triệt.
Dường như cọp biết
mình bị Lê Sĩ Triệt phá đám nó nổi giận quyết giở ngón độc để giết chàng. Với
thân hình to lớn lại ra đòn hung dữ, khối thịt của nó đè nhằm cũng đủ bẹp dí
người chàng.
Mọi người tối mắt,
trong khi hai vệ sĩ bình tĩnh nhất trước đó cũng chỉ la được:
– Coi
chừng!
Không ai thấy kịp
lê Sĩ Triệt dùng động tác nào để đánh đỡ, họ chỉ thấy con cọp to lớn đổ xuống
vùng đất trống, từ sau lưng cọp Lê Sĩ Triệt đá một đá thật mạnh, mông cọp quay
ngang, nó hộc một tiếng lớn, mất thăng bằng hai chân trước vặn ngang cày xới một
vệt dưới chân. Cọp chồm dậy mộp đầu thủ thế. Cũng vừa lúc đoàn người ơ Truông
Cây Mít chạy đến, bác Bảy là người đầu tiên nhận dạng được con cọp đã hô to:
– Đây
rồi, coi chừng con cọp vắt khăn đó.
Mọi người nhìn kỹ mới
thấy trên vai chân trước bên phải của nó có một vệt lông vàng to và dài nằm vắt
qua, khác hẳn các vằn khác trên mình cọp. Lúc ấy con cọp lại gầm lên lao tới.
Bây giờ như đã biết thế nhảy phủ không thắng, nó lao thẳng vào mình Lê Sĩ Triệt.
TỪ xa phóng tới khi còn giữa khoảng không, hai chân trước nó giang rộng ra hai
bên. Lê Sĩ Triệt đã có tính toán, chàng né sang bên tay phải và lòn xuống nách
cọp, nhảy vọt ra phía sau xoay người quật ngọn roi vào vai cọp khiến nó nhủi đầu
xuống đất. Vừa lúc đó, hai vệ sĩ bồi thêm hai ngọn côn trên lưng làm nó đau điếng.
Cọp hộc lên một tiếng lớn, quay mình thật nhanh nhảy xổ vào Lê Sĩ Triệt lần nữa.
Bác Bảy đứng ngoài hô to:
– Hãy
coi chừng nó bắt đầu liều mạng rồi đó!
Biết cọp đến lúc
điên tiết, Lê Sĩ Triệt không dám xem thường. Lúc cọp sa xuống, Lê Sĩ Triệt thả
ngọn roi dựng đứng, con cọp thấy nguy liền lật ngang mình. Chợt ngọn roi cũng
ngã xiêng, thân hình cọp ấn xuống ngọn roi, ngọn roi xóc sâu vào mạng sườn của
cọp. Chàng thâu roi đánh bồi một nhát trên cổ, đau đớn quá, cọp hộc lên một tiếng
chồm dậy phóng lẹ đi. Số người đứng xem bất ngờ đứng dạt ra, cọp bị thương nặng,
mang cả ngọn roi định vọt vào rừng, máu từ vết thương tuôn xối ướt đỏ ngọn roi.
Một võ sĩ đón đánh một ngọn roi vào mặt không ngờ trong lúc cọp há miệng, ngọn
roi trúng vào, anh nghe dội tay. NGọn roi bị cọp cáăn mạnh nên gãy dập một đoạn
ở nơi đầu và rơi ra. Lê Sĩ Triệt bồi thêm một ngọn roi vào cổ làm cọp bị một vết
thương nặng. Sức mạnh ngọn roi làm cọp gãy cổ, nó lồng lộn đứng lên nhưng không
cất đầu được. Số vệ sĩ và đám thanh niên trong xóm thi nhau phóng những ngọn
lao và những ngọn côn làm nát cả mình, cọp đành nằm yên chụi đánh chịu đâm cho
đến chết. Vừa lúc ấy Hà Đảnh chạy tới giựt ngọn côn của vệ sĩ, hai tay chập một
ông ta đập thêm mấy cái lên lưng, lên vai, lên cổ, lên đầu, miệng quan thì la
hét chưởi bới lung tung. Anh vệ sĩ bị gãy roi xem lại mới hay cọp bị ngọn roi
trúng vào miệng gãy hết hàm răng trên, chỉ có răng nanh còn nguyên vẹn.
Trong khi mọi người
vừa xem, vừa nói về sự hung dữ, sức khoẻ và thân hình to lớn của cọp. Họ kể
lung tung về sự hoành hành của cọp và rối rít khen ngợi Lê Sĩ Triệt. Bác Bảy cầm
một bó cành khô lửa ngọn bốc cao. Ông đến thui cháy hàm râu cọp. Lê Sĩ Triệt thấy
lạ nên hỏi:
– Đốt
chi vậy bác Bảy?
– Đốt
râu nó cháu ạ. Râu cọp nếu còn, có ai tình cờ để gần bụi tre, thì măng tre ở đó
tự nhiên hoá sâu. Sâu này ỉa toàn phân trắng, có khi sâu ỉa phân đen, phân ấy
là phân độc, ai trúng độc này thuốc tiên cũng không chữa được. Thợ săn thú rừng
chúng tôi vì lương tâm con người nên không ai dám để, kẻ xấu lấy được râu cọp.
Bắt giết được nó thì việc đầu tiên là phải đốt cháy sạch râu.
Râu cọp đã được đốt
cháy s5ch rồi, đám vệ sĩ xúm nhau cắt móng cọp. Họ giành nhau với dân, Lê Sĩ
Triệt thấy lạ, bèn hỏi tiếp, bác Bác giải thích:
– Người
ta đồn móng cọp kỵ tà ma. Người ta dùng móng cọp bịt vàng, bịt bạc để dành đeo
cho trẻ con, tà ma sợ hơi cọp nên không quấy phá, con nít nhờ vậy cũng dễ nuôi.
Cho nên móng cọp là vật quý trong những gia đình có con, có cháu còn bé.
Nghe thấy mọi người
cãi vả tranh giành nhau, Lê Sĩ Triệt can thiệp:
– Các
anh mỗi người chỉ lấy một móng mà thôi, số còn lại biếu cho bà con ở Truông Cây
Mít. Da nó nát bét hết rồi, còn thịt cho luôn bà con đó.
Nảy giờ Huyên quan
Hà Đảnh đứng nghe Lê Sĩ TRiệt phân chia chiến lợi phẩm, ông ta tiếc quá xen vào
cãi lại:
– Món
lợi này do chúng ta mới có, các ngươi chỉ là những người góp công, phải chia thế
này mới đúng. Cậu này có công lớn nhất hãy lấy một móng cọp. Dân chúng Truông
Cây Mít có tinh thần tiếp ứng ta thưởng cho một móng, phần còn lại thuộc về
quan trên kể cả xác con cọp.
Mọi người ngớ ra
không hiểu ông này là ai mà có cách phân chia kỳ quặc và ăn nói lớn lối lạ lùng
như vậy. Bác Bảy hỏi:
– Quan
nhân là ai mà có cách chia phần lạ vậy? Đáng lý là công lao của chú em này phải
để cho nó hưởng hết mới đúng. Có khi quan nhân phải thưởng thêm cho y nữa, vì một
mình y đã đánh thắng con hổ, cứu được nhiều người và dập ắtt được mối lo trong
thôn xóm.
– Công
trạng của võ sĩ này ta sẽ tính. Ta định dùng y vào hàng vệ sĩ. Về con cọp thì
ta là người có quyền hơn hết ở đây, toàn bộ cõi Quan Hoá này cả đất đai, con
người, sản vật và muôn thú đều là của triều đình. Con cọp này cũng là của triều
đình. Ta là người được triều đình phong chức, cai trị toàn cả nơi đây, cho nên
ta có nhiệm vụ gìn giữ, thu hồi tất cả sản vật trong vùng. Các ngươi là con dân
hèn mọn, không được tranh đoạt bất cứ món gì do triều đình làm chủ, mà ta là
người thay mặt vua, biết chưa?
Một vệ sĩ nói với
dân chúng:
– Ngài
là quan huyện Quan Hoá đó bà con ạ!
Bác Bảy:
– À,
hèn chi.
Quan huyện trợn mắt
hỏi:
– Ngươi
nói hèn chi cái gì?
– Chúng
tôi là dân quê, chưa gặp quan lớn lần nào. Bây giờ mới biết ngài là quan huyện
sở tại. Hèn chi ngài xem cái gì ở Quan Hoá cũng là của ngài. Thật là phụ mẫu
chi dân!
– Chớ
sao!
Quay sang Lê Sĩ Triệt
ông nói:
– Còn cậu em này võ
nghệ cao cường, ta thích những người dũng mãnh như vậy. Thôi, đi đâu xa làm chi
cho cực, hãy đi theo ta về Quan Hoá làm vệ sĩ trong nha. Nếu lập được công ta sẽ
cất nhắc cho có chức phận, có địa vị với đời, đừng đi lang thang như vậy mà uổng
phí cuộc đời trai trẻ. Hãy theo ta đi.
Lê Sĩ Triệt nghe
nói đây là quan huyện Quan Hoá, chàng không biết rõ đây có phải là kẻ thù hay
không, nên ướm thử:
- Như vậy chắc ngài là huyện quan Hà Đảnh?
- Chính ta. Nhưng sao cậu biết?
- Như vậy chắc ngài là huyện quan Hà Đảnh?
- Chính ta. Nhưng sao cậu biết?
– Tôi
có nghe cha mẹ tôi nói lại.
– Chính
ta đây. Ta cai trị đất Quan Hoá trên hai mươi năm rồi. Ai mà không biết ta. Hãy
theo hầu ta nhé.
Trong khi đó, bác Bảy
kề tai nói nhỏ cùng số dân trong xóm một điều chi đó, ai nghe cũng gật đầu mĩm
cười. Bác Bảy bước lên chắp tay xá quan huyện rồi nói:
– Bẩm
thượng quan, nếu con cọp này là của triều đình thì thượng quan cứ nhận, bọn tệ
dân chúng tôi không dám tranh dành.
Lê Sĩ Triệt nghe
bác Bảy nhân nhượng một cách dễ dàng. Chàng tức tối hỏi:
– Bẩm
thượng quan, con cọp chết rồi ngài mới nói nó là của triều đình, tức là của
ngài. Nhưng khi tôi giật ngài ra từ miệng cọp, nếu con cọp cũng nói rằng ngài
là của nó thì lời nào đúng hơn?
Quan huyện nghe hỏi
bất tử, ông ta ngẩn ra:
– Á,
a … Ta mà là của cọp à? Cọp nói vậy à … tiểu tử, mi đừng ỷ tài mà phạm thượng ,
luật nước không dung tha đâu… Người xúc phạm ta là xúc phạm triều đình, thấy
ngươi còn nhỏ ta tha cho, đừng ăn nói dại dột vậy nữa.
Lê Sĩ Triệt nhìn
lên thấy bác Bảy nháy mắt, lắc đầu nên chàng nói xuôi:
– Bẩm
quan, tôi định nói chơi không dè phạm thượng, xin ngài tha cho.
– Ừ
được, mi theo hầu ta, ta sẽ dạy cách ăn ở, đối xử với bề trên thế nào cho đúng.
Đừng quen thói rừng rú mất tư cách của người trai võ nghệ cao cường. Theo ta,
ta sẽ cho làm việc, cho áo cơm, cho chức vụ và rồi sẽ cho quyền hành. Có bằng
lòng không?
Trước kẻ thù không
đội trời chung, Lê Sĩ Triệt muốn giết hắn ngay cho rồi, ngặt vì quanh hắn còn
nhiều võ sĩ võ nghệ cũng không tồi. Nếu ban nãy chàng biết y là Hà Đảnh thì xuất
kỳ bấy ý mà giết cũng xong. Nhưng đạo lý không xem đánh lén là thượng võ. Bây
giờ có hài tội hắn thì chưa chắc giết gọn được hắn. Thôi thì sẵn đây hắn đang mở
đường, ta cứ tùng quyền sống tiếp cận với hắn thế nào cũng có dịp tốt để trả
thù.
Nghĩ thế Lê Sĩ Triệt
chắp tay:
– Thượng
quan thương tưởng chiếu cố, tôi xin tuân lệnh.
Thu phục được một
chàng trai khôi ngô tuấn tú, võ nghệ cao cường, Hà Đảnh mừng rỡ ra mặt. Y cho rằng
với tài nghệ này chàng làm vây cánh cho y thì con đường đi lên mọi mặt của y sẽ
có người bảo vệ chắc chắn. Y bước tới vỗ vai Lê Sĩ Triệt:
– À,
ta quên hỏi, người tên họ là gì, ở đâu, đi đâu mà đến đây đánh cọp vậy?
– Bẩm
thượng quan, tôi tên là Lê Sĩ Triệt, cha mẹ chết sớm, ở cùng thầy trên núi, vì
tôi không có căn tu nên thầy cho xuống núi để lập thân. Tôi định về Quan Hoá
tìm nơi gởi gắm cuộc đời, kiếm công lập nghiệp, không dè trời cũng chiều người
nên gặp được thượng quan.
Hà Đảnh mặt càng
tươi hơn, ông ta cười lớn một cách thoả mãn:
– Gặp
được ta là điều may mắn cho ngươi lắm đó. Ngươi quen biết những người này ra
sao?
– Đây
là những cô bác, anh chị ở Truông Cây Mít. Đem qua tôi ghé nghỉ nhờ trong xóm
làm quen, hôm nay quí vị tiễn tôi ra đường thì gặp dịp này.
– Vậy
là tốt, thôi ngươi từ giã họ rồi giúp đem con cọp lên xe để cùng về huyện nha với
ta.
Lê Sĩ Triệt bước đến
từ giã mọi người, nắm tay bịn rịn cùng bác Bảy, ông nói:
– Thôi cháu đi, cầu
chúc cháu được vạn sự lành, khi nào ghé lại Truông Cây Mít, không gặp ta cứ hỏi
bác Bảy Gồng thì bà con sẽ chỉ cho.
Hà Đảnh hối thúc
đám xà ích, vệ sĩ cùng Lê Sĩ Triệt khiêng chiếc xe bị ngã dựng lên ngay ngắn rồi
khiêng xác con cọp chất lên, xong xuôi còn chờ mắc ngựa vào xe. Hà Đảnh leo lên
ngồi trước đầu cọp có vẻ tự đắc, nghĩ rằng mình đã thu được thành công lớn.
Dự định không ghé nghỉ tại Bàu
Đồn mà phải đi suốt đêm, đến gần sáng sẽ về tới huyện nha. Riêng xác con cọp
này đủ làm mọi lời đồn lan xa, những nơi đã từng bị cọp quấy phá dân chúng sẽ
mang ơn và khiếp oai mình hơn nữa.
Chiếc xe tải hương liệu, dược
liệu đã chuẩn bị xong xuôi, hai người xà ích dẫn ngựa lại mắc vào xe chở cọp,
ngựa bịt mắt không thấy gì, nhưng đến gần xe nó khịt mũi hốt hoảng. Vì ngửi được
hơi cọp quá gần, bất ngờ nó hí vang, quày cổ dậm chân cố tìm cách thoát ra. Hai
người xà ích cố đánh cho ngực tấp vào, người đánh xe vừa lẹ làng nhảy lên thì cặp
ngựa chồm lên dựng đứng bằng hai chân sau, xe bị mất thăng bằng. Một con ngựa
thoáng thấy cọp nó run rẩy khuyu xuống trong khi con kia thì chồm ngược, chiếc
xe nghiêng đổ sụp xuống lề đường. Hà Đảnh bị rơi ra, bánh xe càn ngang ống
chân, ông ta chỉ kịp la lên một tiếng rồi ngất xỉu, xác cọp cũng đổ xuống, nằm
đè lên mình quan. Cả bọn vệ sĩ hết hồn chạy lại xốc quan huyện lên trong khi
hai con ngựa còn lôi chiếc xe chạy thục mạng vào rừng, chạm vào một gốc cây to,
ngựa bị mắc lại, miệng vẫn hí vang, da thịt run bẩy bẩy, mũi vẫn khịt khịt, nước
mắt chảy ròng ròng. Những người đứng coi cười ngất, có người không kềm chế được
nên vỗ tay một cách thích thú.
Hà Đảnh đã hồi tỉnh lại, khớp
chân bị trật đau quá, thấy dân chúng đứng cười, hắ tức tối bước lên. Không ngờ
khớp trật quá đau nên y quỵ xuống nhăn mặt một hồi rồi quát:
– Bộ
vui lắm sao các ngươi cười dữ vậy?
Bác Bảy Gồng bước đến nói nhỏ
nhẹ:
– Loài
ngựa không thích hơi cọp, cái giống nó kỵ nhau như vậy, quan lớn không làm sao
đặt cọp lên xe cho ngựa kéo đi được đâu.
– Tại
sao hồi nãy mầy không nói?
– Vì
nói ra thì sợ quan lớn bảo dân rừng chúng tôi gạt ngài để tranh giành xác cọp
mà ăn tươi nuốt sống, nên đành phải nín thinh, dù biết trước việc này sẽ xảy
ra.
– Như
vậy thì bọn bây đáng phạt mỗi đứa trăm roi. Vệ sĩ, trị tội lão già này cho ta.
Tội nó muốn hại ta cho chết đấy.
Bác Bảy Gồng không còn nhịn nổi
nữa, ông trả lời:
– Tôi
thách ông đó, ai đánh nổi tôi thì đánh thử xem. Thằng này trụ không vững thì có
ai kêu nó là Bảy Gồng. Coi đây.
Nói xong, ông đứng chụm chân lại,
lấy hơi hít một luồng chân khí thật sâu, bụng thót lại, mắt đứng tròng như lồi
ra. Tiếng gân xuông chuyển răng rắc, các bắp thịt trên mình ông cuộn sóng.
Không còn thấy ông như người bình thường mà là những khối cơ bắp chắp lại với
nhau., chỗ lồi, chỗ khuyết, rồi lại theo sự vận hành của làn hơi mà như những đợt
sóng thay đổi vị trí, chạy xuống chạy lên liên hồi. Cuối cùng, khi ông thở đều
hoà trở lại, miệng kêu “đánh đi” thì toàn thân ông đã như một khối thép rắn chắc,
hoặc như sợi thừng được se thật săn cứng. Tuy sắc diện ông trở lại bình thường
nhưng bao nhiêu cơ bắp của ông vẫn căng lên và đỏ bừng như sắp bốc lửa.
Bọn vệ sĩ thấy thế kinh hồn,
chúng rỉ tai nhau: Chết cha, gặp ông Bảy Gồng rồi, mình nghe danh ổng đã lâu lắm,
lúc này có đem dao ra chém cũng không trầy da đất, ba cây gậy đập ruồi của mình
thì có làm gì được ông ta mà dám chọc giận.
Hà Đảnh vì ỷ lại vào chức vụ
và đám thuộc hạ của mình, nên y giỡ giọng ra oai, không ngờ đụng phải Bảy Gồng.
Ban đầu Hà Đảnh ngạc nhiên, sau đó lại mất hồn, đâm hoảng, y nhìn đám vệ sĩ để
cầu cứu, nhưng tất cả những con mắt ngày thường háo hức với ông ta bao nhiêu
thì nay sụp mi lại quay đi nơi khác, lắm lét như chó cụp đuôi. Cảm thấy không
còn điểm tựa, nên y quay lại vả lả cùng Bảy Gồng:
– Thôi,
ta thử ngươi chơi xem bà con phản ứng thế nào cho biết, chớ ta ngu lắm sao mà
muốn đánh ai thì đánh, ra lệnh gì thì ra. Nhà ngươi già cả rồi mà còn lợi hại
như vậy, hồi trẻ chắc là giỏi lắm. Ta thành thật có lời khen đó.
Bảy Gồng muốn trổ sơ sơ tài
nghệ để doạ Hà Đảnh chút chơi, không dè ông ta sợ ra mặt. Bảy Gồng hít một hơi
vào rồi thở ra, thân hình trở lại trạng thái bình thường với vẻ lọm khọm của một
ông già nông dân chơn chất.
Thấy tình thế im xuôi trở lại,
Hà Đảnh tiếc xác con cọp mà không biết làm sao đem đi, y ra lệnh:
– Bây
giờ theo lệnh ta, những người dân ở Truông Cây Mít đem xác con cọp về mổ thịt
ăn đi. Lấy bộ xương nấu cao hổ cốt, xương con hổ này chắc phải đủ mười lăm lạng
cao, ta cho lại ba lạng công cán, hai lạng đồ pha chế, còn mười lạng nộp cho
ta, nhớ nha.
Thấy Bảy Gồng gật đầu, Hà Đảnh
bỏ xác hổ lại, kêu vệ sĩ lên xe, y còn dặn với:
– Còn
tấm da phơi khô đem nộp tại huyện nha luôn nghe.
Xe ngực d8i độ trăm thước, y
trực nhớ liền kêu quay lại, bắt bọn vệ sĩ lấy dao cắt hết bộ móng cọp, y gói kỹ
bỏ vào đãy lận sau lưng. Lúc bấy giờ y mới yên tâm đi thẳng.
Ở đây, bác Bảy Gồng nói cùng
bà con trong xóm:
– Thật đúng là tham quan, vơ
vét cho đến hết mới yên lòng, thiếu một chút nó không chịu nổi.
Một thanh niên:
– Dù gì mình cũng được một trận
cười sướng mắt, sướng miệng. Mấy thuở được thấy thượng quan hạ lộ bò càng, cọp
chết cũng còn đè được quan. Ha, ha…
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét