Thiên Hương tuy giỏi võ, tay có vũ khí nhưng phải chống cự với nhiều người
và còn phải để tâm lo chống đỡ cho Diệu Lan nên nàng tỏ ra hơi nao núng. Túng
thế nàng đành phải tính đường phá vòn vây thoát chạy. Nàng gọi Diệu Lan:
– Em mau thoát ra ngoài.
Dứt lời nàng đánh vẹt Cà Chây nhảy ra ngoài, thuận tay nàng chặt luôn một
cây mai định đưa cho Diệu Lan làm vũ khí. Cây mai đứt tiện ngã xuống thì bọn cướp
đã sáp tới đánh dữ hơn. Trận đấu trở nên quyết liệt. Khê Dol hét lên ra lệnh:
– Thằng Cà Chây, Tà Luông bắt
con nhỏ tay không.
Cục diện liền được chia làm hai nhóm, Diệu Lan bị tên cướp áp đảo, phút chốc
nàng lâm vào tình thế nguy kịch. Thừa lúc Diệu Lan đang lúng túng tránh né và
mãi thụt lùi, Cà Chây tháo dây trong lưng quất mạnh vào chân Diệu Lan, Diệu Lan
vướng dây bị hắn giựt mạnh nên mất thăng bằng té nhào. Bọn cướp ào tới bắt trói
Diệu Lan và giao cho một thằng đứng trông chừng. Diệu Lan kêu lên bảo Thiên
Hương:
– Chị Thiên Hương chạy đi.
Thiên Hương một mình chống cự với mấy tên cướp, trong đó Khê Dol quả là dũng
mãnh, đường đao của hắn thật là lợi hại. Thiên Hương nhờ được luyện tập võ nghệ
từ tấm bé nên cơ thể khoẻ mạnh dẽo dai đủ sức đương cự cùng bọn cướp, nhưng vì
bị chi phối bởi lo cho Diệu Lan, nên khi nghe Diệu Lan kêu nàng hốt hoảng, đường
đao không còn linh hoạt. Bọn cướp giờ được thêm hai tên giúp sức nên chúng càng
hung hãn. Trong lúc lo lắng, nóng lòng muốn cứu Diệu Lan, Thiên Hương thất thế
bị một tên quăng dây giựt té. Khê Dol tức giận vì từ trước đến nay chưa ai làm
cho hắn phải mệt nhọc thế này, căm giận hắn quyết giết chết Thiên Hương. Hắn
khoa dao chém xuống Thiên Hương vừa lăn qua tránh được lưỡi đao thứ nhất thì lưỡi
đao thứ hai đã đấn: Diệu Lan trông thấy hốt hoảng la lên:
– Chết!
*********
Từ giã thầy và bác Lê Sĩ Triệt lòng ngùi ngùi bước đi chậm chạp, tâm trạng
trống rỗng, chân bước đi mà lòng vẫn vương lại quanh chùa.
Từ nhỏ đến lớn sống quanh quẩn cùng thầy, đói no, ấm lạnh có nhau, từ miếng
ăn cái mặc giấc ngủ, đêm ngày không bao giờ xa cách. Nay vào đời đơn độc, xa thầy,
xa chùa, xa động, chàng thấy đó là một mất mát lớn lao, từ nay còn ai đâu để rầy
la, dạy dỗ. Lòng buồn rười rượi, chàng đã xuống gần chân non mà vẫn chưa hay biết.
Giật mình vì cách không xa vang tiếng va chạm binh khí, tiếng quát tháo hậm
hực vọng lại. Lê Sĩ Triệt lạ lùng, nơi đây trước giờ vô cùng yên tĩnh sao nay
có cuộc đánh nhau? Nghĩ thế nàng chạy một mạch đến nơi xảy ra sát phạt. Chưa rõ
nguyên cớ ra sao, chàng nép vào gốc đa lớn, chăm chú nhìn sáu người đàn ông lực
lưỡng đang vây đánh hai thiếu nữ.
Đường đao của người thiếu nữ sử dụng rất thành thạo, nhưng ngặt sức gái lại
phải đối phó với số đông, quả không cân sức, lại còn che chở cho người bạn gái
tay không, xem ra thật kém thế. Khi Diệu Lan bị giật dây ngã, Sĩ Triệt đoán trước
người thiếu nữ còn lại cũng sẽ thất bại vì ngón đòn này nên chàng đã chuẩn bị ứng
cứu.
Nhớ lời thầy dạy hôm trước rằng ở hướng tay núi có bọn cướp xuất hiện,
chàng đoán chắc chính là bọn này. Vùng hoạt động của chúng đã lan ra đến đây.
Theo dõi đấu trường chàng muốn trận đấu kéo dài để biết thêm tài nghệ thiếu nữ,
khi nhận ra Thiên Hương có nguy cơ thất bại, chàng cúi xuống nhặt một hòn đá cầm
tay. Lúc Thiên Hương ngã xuống vừa tránh được đường đao thứ nhất của tên cướp
thì đường đao thứ hai đã chém xuống. Thấy nguy, Sĩ Triệt ném hòn đá cứu nạn.
Hòn đá xé gió bay thẳng đến tên cướp.
Khê Dol hăm hở xuống đao, kết liễu mạng sống Thiên Hương, bỗng hắn ối lên
đau đớn nhảy lùi lại. Hắn ôm cổ tay nhăn nhó hoảng sợ nhìn cổ tay đỏ bầm, nửa
thân tê dại, cánh tay như muốn gãy hắn buông đao lo sợ nhìn quanh. Bọn cướp giật
mình la lên khi thấy một chàng trai ung dung từ gốc cây bước ra.Chàng khua cậy
gậy dài như giễu cợt bọn chúng. Thiên Hương thoát hiễm hãy còn kinh ngạc, nhìn
thấy chàng trai nàng biết ngay đây chính là người ra tay cứu nàng.
Sĩ Triệt đến trước mặt bọn cướp chống gậy ung dung nói:
– Giỏi gì mà sáu đứa lực lưỡng
vây đánh một cô gái.
Thấy việc của mình tưởng đã xong lại bị phá đám, lại còn bị ném đá ê ẩm cả
tay, Khê Dol nổi giận điểm mặt Sĩ Triệt:
– Việc của tao mà mày vô cớ
xen vào thì mày phải chịu chết.
– Việc gì, việc ăn cướp hả?
– Việc gì cũng mặc tao.
– Đây là đường khách thập
phương đi cúng núi, bọn bây đến phá ta chưa trị tội là may. Khôn hồn lo xin lỗi
hai chị đi.
– Mày là thằng nào mà dám lớn
lối như vậy?
– Ta là Lê Sĩ Triệt từ nhỏ
tới lớn ở núi này.
– Vậy mày cũng là thằng ngồi
không gạt chúng lấy gạo tiền dân cúng mà ăn. Chúng tao hơn mày là phải cực khổ
đi cướp giựt. Tốt gì mà khoe khoang lớn lối?
Vừa dứt lời Khê Đol nhảy tới chém ngang mình Lê Sĩ Triệt. Sĩ Triệt nhẹ nhàng
đưa bút chận lấy lưỡi đao mà nói:
– Ta khuyên ngươi dẹp nghề
này về nhà làm ăn lương thiện tốt hơn. Ai lại đi ăn cướp của khách đi chùa. Họ
có bạc tiền bao nhiêu mà cướp.
– Kệ tao, cướp của chục đứa
nghèo cũng bằng một thằng giàu. Mày khôn thì đi chỗ khác, còn đây là hai con mồi
của tao mày không được can thiệp vào.
– Thật tình ta khuyên các
ngươi mở trói thả cô gái kia ra và cút mất đi, bằng không thì chớ trách ta.
– Mày là cái thá gì, tụi
bây nhào vô giết nó cho tao.
Thiên Hương tuy giỏi võ, tay
có vũ khí nhưng phải chống cự với nhiều người và còn phải để tâm lo chống đỡ
cho Diệu Lan nên nàng tỏ ra hơi nao núng. Túng thế nàng đành phải tính đường
phá vòn vây thoát chạy. Nàng gọi Diệu Lan:
–
Em mau thoát ra ngoài.
Dứt lời nàng đánh vẹt Cà Chây
nhảy ra ngoài, thuận tay nàng chặt luôn một cây mai định đưa cho Diệu Lan làm vũ
khí. Cây mai đứt tiện ngã xuống thì bọn cướp đã sáp tới đánh dữ hơn. Trận đấu
trở nên quyết liệt. Khê Dol hét lên ra lệnh:
–
Thằng Cà Chây, Tà Luông bắt con nhỏ tay không.
Cục diện liền được chia làm
hai nhóm, Diệu Lan bị tên cướp áp đảo, phút chốc nàng lâm vào tình thế nguy kịch.
Thừa lúc Diệu Lan đang lúng túng tránh né và mãi thụt lùi, Cà Chây tháo dây
trong lưng quất mạnh vào chân Diệu Lan, Diệu Lan vướng dây bị hắn giựt mạnh nên
mất thăng bằng té nhào. Bọn cướp ào tới bắt trói Diệu Lan và giao cho một thằng
đứng trông chừng. Diệu Lan kêu lên bảo Thiên Hương:
–
Chị Thiên Hương chạy đi.
Thiên Hương một mình chống cự
với mấy tên cướp, trong đó Khê Dol quả là dũng mãnh, đường đao của hắn thật là
lợi hại. Thiên Hương nhờ được luyện tập võ nghệ từ tấm bé nên cơ thể khoẻ mạnh
dẽo dai đủ sức đương cự cùng bọn cướp, nhưng vì bị chi phối bởi lo cho Diệu
Lan, nên khi nghe Diệu Lan kêu nàng hốt hoảng, đường đao không còn linh hoạt. Bọn
cướp giờ được thêm hai tên giúp sức nên chúng càng hung hãn. Trong lúc lo lắng,
nóng lòng muốn cứu Diệu Lan, Thiên Hương thất thế bị một tên quăng dây giựt té.
Khê Dol tức giận vì từ trước đến nay chưa ai làm cho hắn phải mệt nhọc thế này,
căm giận hắn quyết giết chết Thiên Hương. Hắn khoa dao chém xuống Thiên Hương vừa
lăn qua tránh được lưỡi đao thứ nhất thì lưỡi đao thứ hai đã đấn: Diệu Lan
trông thấy hốt hoảng la lên:
–
Chết!
*********
Từ giã thầy và bác Lê Sĩ Triệt
lòng ngùi ngùi bước đi chậm chạp, tâm trạng trống rỗng, chân bước đi mà lòng vẫn
vương lại quanh chùa.
Từ nhỏ đến lớn sống quanh quẩn
cùng thầy, đói no, ấm lạnh có nhau, từ miếng ăn cái mặc giấc ngủ, đêm ngày
không bao giờ xa cách. Nay vào đời đơn độc, xa thầy, xa chùa, xa động, chàng thấy
đó là một mất mát lớn lao, từ nay còn ai đâu để rầy la, dạy dỗ. Lòng buồn rười
rượi, chàng đã xuống gần chân non mà vẫn chưa hay biết.
Giật mình vì cách không xa
vang tiếng va chạm binh khí, tiếng quát tháo hậm hực vọng lại. Lê Sĩ Triệt lạ
lùng, nơi đây trước giờ vô cùng yên tĩnh sao nay có cuộc đánh nhau? Nghĩ thế
nàng chạy một mạch đến nơi xảy ra sát phạt. Chưa rõ nguyên cớ ra sao, chàng nép
vào gốc đa lớn, chăm chú nhìn sáu người đàn ông lực lưỡng đang vây đánh hai thiếu
nữ.
Đường đao của người thiếu nữ sử
dụng rất thành thạo, nhưng ngặt sức gái lại phải đối phó với số đông, quả không
cân sức, lại còn che chở cho người bạn gái tay không, xem ra thật kém thế. Khi
Diệu Lan bị giật dây ngã, Sĩ Triệt đoán trước người thiếu nữ còn lại cũng sẽ thất
bại vì ngón đòn này nên chàng đã chuẩn bị ứng cứu.
Nhớ lời thầy dạy hôm trước rằng
ở hướng tay núi có bọn cướp xuất hiện, chàng đoán chắc chính là bọn này. Vùng
hoạt động của chúng đã lan ra đến đây. Theo dõi đấu trường chàng muốn trận đấu
kéo dài để biết thêm tài nghệ thiếu nữ, khi nhận ra Thiên Hương có nguy cơ thất
bại, chàng cúi xuống nhặt một hòn đá cầm tay. Lúc Thiên Hương ngã xuống vừa
tránh được đường đao thứ nhất của tên cướp thì đường đao thứ hai đã chém xuống.
Thấy nguy, Sĩ Triệt ném hòn đá cứu nạn. Hòn đá xé gió bay thẳng đến tên cướp.
Khê Dol hăm hở xuống đao, kết
liễu mạng sống Thiên Hương, bỗng hắn ối lên đau đớn nhảy lùi lại. Hắn ôm cổ tay
nhăn nhó hoảng sợ nhìn cổ tay đỏ bầm, nửa thân tê dại, cánh tay như muốn gãy hắn
buông đao lo sợ nhìn quanh. Bọn cướp giật mình la lên khi thấy một chàng trai
ung dung từ gốc cây bước ra.Chàng khua cậy gậy dài như giễu cợt bọn chúng.
Thiên Hương thoát hiễm hãy còn kinh ngạc, nhìn thấy chàng trai nàng biết ngay
đây chính là người ra tay cứu nàng.
Sĩ Triệt đến trước mặt bọn cướp
chống gậy ung dung nói:
–
Giỏi gì mà sáu đứa lực lưỡng vây đánh một cô gái.
Thấy việc của mình tưởng đã
xong lại bị phá đám, lại còn bị ném đá ê ẩm cả tay, Khê Dol nổi giận điểm mặt Sĩ
Triệt:
–
Việc của tao mà mày vô cớ xen vào thì mày phải chịu chết.
–
Việc gì, việc ăn cướp hả?
–
Việc gì cũng mặc tao.
–
Đây là đường khách thập phương đi cúng núi, bọn bây đến phá ta chưa trị tội là
may. Khôn hồn lo xin lỗi hai chị đi.
–
Mày là thằng nào mà dám lớn lối như vậy?
–
Ta là Lê Sĩ Triệt từ nhỏ tới lớn ở núi này.
–
Vậy mày cũng là thằng ngồi không gạt chúng lấy gạo tiền dân cúng mà ăn. Chúng
tao hơn mày là phải cực khổ đi cướp giựt. Tốt gì mà khoe khoang lớn lối?
Vừa dứt lời Khê Đol nhảy tới
chém ngang mình Lê Sĩ Triệt. Sĩ Triệt nhẹ nhàng đưa bút chận lấy lưỡi đao mà
nói:
–
Ta khuyên ngươi dẹp nghề này về nhà làm ăn lương thiện tốt hơn. Ai lại đi ăn cướp
của khách đi chùa. Họ có bạc tiền bao nhiêu mà cướp.
–
Kệ tao, cướp của chục đứa nghèo cũng bằng một thằng giàu. Mày khôn thì đi chỗ
khác, còn đây là hai con mồi của tao mày không được can thiệp vào.
–
Thật tình ta khuyên các ngươi mở trói thả cô gái kia ra và cút mất đi, bằng
không thì chớ trách ta.
–
Mày là cái thá gì, tụi bây nhào vô giết nó cho tao.
Khê đol và đồng bọn ào tới. Cuộc
chiến lại diễn ra các liệt trăm phần. Thiên Hương lượm đao, thừa lúc bọn cướp
áp đánh Lê Sĩ Triệt, nàng đến cắt dây mở trói cho Diệu Lan. Nàng đưa cho Diệu
Lan thanh đao và nhặt lấy cành cây, cả hai định vào tiếp sức cho Sĩ Triệt. Sĩ
Triệt thấy thế liền nói:
–
Các cô yên tâm nghỉ tay, mình tôi đánh bọn chúng đủ rồi.
Miệng nói tay chàng sử dụng
cây roi tung ra những đòn thế mạnh mẽ, xé gió rít lên. Bọn cướp ban đầu thấy
chàng võ nghệ cao cường, chúng không muốn va chạm mà chỉ muốn áp đảo cho Sĩ Triệt
bỏ đi. Chẳng dè Sĩ Triệt cương quyết không đi mà quyết tình can thiệp vào việc
làm của bọn chúng để cứu Thiên Hương và Diệu Lan. Sợ mất mồi ngon, bọn cướp tức
tối quyết lòng hạ thủ Sĩ Triệt.
Cuộc chiến càng lúc càng thêm
dữ dội, bên nào cũng qyết tranh phần thắng về mình. Cỏ hoa chung quanh va chạm
bẹp nát, tung cao một vầng bụi đỏ, sự chết sống bây giờ chỉ trong kẻ tóc đường
tơ.
Thiên Hương và Diệu Lan đứng
xem, hai cô không ngờ trận đánh nhau lại trí mạng như vậy. Tiếng vũ khí va chạm
nhau chan chát, leng keng, chưa thấy ngã ngủ thắng bại về ai. Tiếng bọn cướp
quát tháo cùng hơi thở hồng hộc dồn dập làm cho không khí nặng mùi chết chóc
kinh rợn.
Bỗng nhiên Lê Sĩ Triệt la lớn:
–
Đủ rồi, bây giờ hãy coi chừng. Một.
Tiếng chàng vừa dứt, đấu trường
một tên cướp rơi đao, hắn liền nhảy ra ngoài, ôm lấy cổ tay nhăn nhó ra chiều
đau đớn khủng khiếp. Diệu Lan toan lại lấy đao thì Sĩ Triệt đã kêu:
–
Cô hãy lui ra không cần phải lấy đâu! Hai!
Một tên cũng bằng kiểu cách
trên rơi đao, ôm tay nhăn mặt và cứ thế mà đến ba, bốn. Rốt cuộc cả bốn tên
cùng với Tà Tuông hoảng sợ buông vũ khí bất lực đứng nhìn sững sốt chàng trai lạ
mặt. Riêng Khê Dol đã nhảy ra ngoài từ trước nên mới khỏi bị rơi đao. Sĩ Triệt
nhìn Khê Dol nói:
–
Bây giờ còn mình ngươi, nếu xin lỗi ta sẽ tha cho.
Khê Dol đã ngán Sĩ Triệt nhưng
chẳng lẽ hắn là đầu đảng mà lại tỏ ra khiếp sợ thì sau này còn mong gì sai khiến
bọn cướp. Quá giận đâm liều, hắb gầm lên rồi lao vào đâm chém túi bụi quyết sống
quyết chết cùng với Sĩ Triệt.
Sĩ Triệt chỉ đánh cầm chừng, sức
kiềm chế càng lúc càng tăng, nhưng chỉ như con mèo vờn chuột, không hạ thủ mà cũng
chẳng buông tha.
Trận chiến đáng lẽ phải kết
thúc đã lâu, vì mạnh yếu bên nào đã phân biệt rõ ràng, nhưng Lê Sĩ Triệt có
thâm ý khác. Chàng chỉ đánh cầm chừng, càng lúc càng bó hẹp đường đao của Khê
Dol. Lê Sĩ Triệt càng tăng sức ép bao nhiêu thì Khê Dol càng lúng túng, đã đến
lúc hắn muốn nhịn thua mà vẫn không làm sao để thua được. Muốn thu đao về để nhảy
ra ngoài, nhưng bóng ngọn roi quanh mình mé nào cũng có, lại càng lúc acàng thắt
chặt thêm.
Trà Phí mang cơm ra đến nơi đứng
ngớ ra một giây, biết cha mình đang lâm ngặt, nếu không giải cứu thì chắc phải
chết thập phần. Để giỏ cơm xuống đất, Trà Phí hò hét đồng bọn đang đứng nhìn ngoài
xa.
–
Mấy người nhào vô phụ với ổng, đứng ngó chơi à?
Một tên trả lời:
–
Mình đáng không lại nó đâu.
–
Xông vô cứu ổng rồi rút chạy.
Thấy mọi người làm thinh không
ai cử động. Trà Phí cho rằng họ nhát gan hoặc bội phản. Nóng tình máu mũ, y lượm
thanh đao nhảy vào trợ chiến cùng cha, miệng kêu:
–
Cha để con đánh thay cho.
Khê Dol đang múa đao đo84 gần
đứt hơi cũng ráng nói:
–
Con ra ngoài đi, đánh không lại nó đâu, cha thoát không được nó vây hãm ác lắm.
Lê Sĩ Triệt nhìn và nghe họ đối
đáp biết họ là cha con. Trà Phí có vóc dáng to lớn như cha nhưng chưa nẩy nở,
tiếng nói vỡ giọng ra sắp thành người lớn, nhưng khuôn mặt còn nhiều nét trẻ
thơ. Từ đôi mắt, sóng mũi, khuôn mặt toát lên tư chất của một người trung hậu.
Khuôn mặt ấy gây cho Lê Sĩ Triệt chút cảm tình.
Nóng lòng cứu cha, Trà Phí
chém đâm loạn xạ không cần xem đối thủ như thế nào, mạng của mình cũng bất kể,
Trà Phí như một con bò tơ lồng lộn hung hăng.
Để cho Trà Phí múa một lúc, Lê
Sĩ Triệt kết thúc chàng hét lên: Ra!
Vừa dứt tiếng la mọi người thấy
Trà Phí văng té ra ngoài gần ba thước, còn lưỡi đao bay vù lên cao rớt cắm mủi
xuống đất ngoài xa. Trà Phí khập khểnh đứng lên, cánh tay cầm đao tê buốt, rụng
rời. Y tối mặt không biết được mình đã bị đánh bởi động tác nào của đối phương
mà lại thất trận dễ dàng. Y nhăn nhó một phần vì đau, một phần thấy cha mình đến
hồi nguy kịch tính mạng trong kẻ tóc đường tơ. Y bật khóc rống.
Đấu trường giờ này chỉ còn Khê
Dol và Lê Sĩ Triệt. Khê Đol bị bức bách, mệt thở ồ ồ, mà không được một giây
lơi tay, trong khi ngọn roi đối phương vụt vù loang loáng. Mồ hôi Khê Dol đổ đầm
đìa, hơi thở dồn dập. Y lựa thế chém đại một đao rồi nhảy vọt ra ngoài. Nhưng vừa
nhảy y vừa nghe một tiếng thét vang: Đi đâu?
Đối phương đã nhanh hơn nhảy
chận đầu khiến y vô phương thoát chạy, bóng ngọn roi cũng chấp chới vây bọc hắn
kín mít như trước.
Biết mình không thể thoát khỏi
hiểm nguy, Khê Dol vừa đánh, vừa thở, vừa kêu con và đồng bọn:
–
Trà Phí … và bọn bây, chạy đi cho khỏi chết. Về giải nghệ … kiếm việc khác làm
ăn…
Nghe tiếng nói đứt quảng cả bọn
ngẩn ngơ, đi không nỡ, mà ở sợ luỵ thân mình, bọn chúng nhìn nhau, còn Trà Phí
thì mếu máo khóc lớn:
–
Phải nghe lời con đừng làm ăn cướp thì đâu có cái tai hoạ này.
Nghe tiếng khóc của con, tâm
thần Khê Dol bấn loạn, y không thiết gì đánh đỡ, đứng yên chịu trận có ra thế
nào thì ra, nhưng khi y xuôi tay thì đối phương hét lớn: Chết!
Tiếp theo là ngọn roi sờt nhẹ
cườm tay hất mạnh lưỡi đao văng cao và bị bồi thêm một đá. Khê Đol cảm tấhy cú
đá không mạnh lắm, nhưng tại sao có sức tống y văng tuột ra ngoài.
Lồm cồm bò dậy, Khê Đol nhận
biết đối phương không cố tình sát hại mình và đồng bọn. Cảm khái nghĩa cử hiếu
sinh của đối phương, y quỳ xuống trước mặt Lê Sĩ Triệt và ngoắc Trà Phí cùng đồng
bọn quì theo. Y lạy chàng nói:
–
Chúng tôi đội ơn người anh hùng tha mạng sống.
Lê Sĩ Triệt xóc đứng ngọn roi
xuống đất. Chàng bước lại đỡ từng người, cùng một lúc Thiên Hương, Diệu Lan bước
đến cúi đầu ra mắt:
– Chị em tôi đội ơn anh hùng
đã cứu nạn.
Không thể kéo dài
tình trạng khó nói, khó xử trí, Lê Sĩ Triệt ngăn Thiên Hương lại, chàng lanh
trí quay qua Khê Đol:
– Các người phải
tính việc làm ăn lương thiện, nghề làm ăn cướp tôi thấy nhục cho thân trai và
nguy hiểm cho thân mình lắm đó.
Khê Dol:
– Chúng tôi cũng là
những nông dân chất phát, tháng năm cày cấy nuôi thân. Nhưng ức gì bọn quan
làng ức hiếp. Người làm ra lúa gạo nuôi đời lại chính mình đói khổ. Lúa gạo làm
ra quan lấy, trâu bò, heo cúi nuôi lớn quan bắt quan ăn, của cải dành dụm quan
chiếm đoạt. Chúng tôi bị quan lấy của, giựt vợ mà còn phải bị tội tù. Khi vượt
ngục được rồi không chốn nương thân, ở không yên chỗ, nay đây mai đó mới rủ
nhau dụng cái nghề này với tham vọng điên cuồng khỏi làm mà có ăn. Chiếm đoạt của
nạn nhân nhiều vàng thì sẽ giàu có, để cho tên mẹ sóc Prey Sala biết mặt, cho
người vợ phản bội thấy tôi không phải không biết làm giàu. Điều ngu muội tai hại
của tôi may nhờ anh hùng tha mạng, tôi mới hiểu ra.
Nói xong Khê Đol chắc
lưỡi hít hà ra vẻ ân hận lắm. Trà Phí láu táu nói:
– Người anh hùng
đánh võ hay quá. Từ xưa tới giờ chưa thấy ai đánh hơn cha tôi, bữa nay được coi
một trận đã đời. Sợ thì sợ mà coi sướng mắt thiệt. Ước gì tôi được theo học võ
nghệ, học tài đức của người anh hùng, chắc cuộc đời tôi đây khỏi gặp cảnh khốn
đốn đi ăn cướp đường, đi đào mỏ đá như thế này.
Nghe Trà Phí nói,
Khê Dol mừng ra mặt, tiếp lời con:
– Người anh hùng có
thể dùng Trà Phí làm anh em bầu bạn. Tôi cho đó. Thằng này con tôi nó tốt bụng,
tốt tính hơn tôi nhiều lắm, tốt lắm. Nó cứ cải lộn với tôi hoài hè. Mình cũng
biết con nó đúng, nhưng chẳng lẽ nhịn thua con à? Với lại không còn con đường
nào khác, làm ăn cày cuốc biết chừng nào mới khá được. Mưa nắng thời tiết của
trời đất, chớ đâu phải của mình để mình sai khiến có lợi cho mình. Mất mùa đói
khát thường lắm. Khi làm ra của, ra lúa thì bọn quan làng nó dòm muốn rớt con mắt.
Đem lúa vô đến nhà là nó kéo nhau lại lấy không. Tức lắm. Bây giờ người anh hùng
chịu cho nó đi theo học hành, nói thật tôi có chết cũng vui và mang ơn.
Lê Sĩ Triệt nghe lời
thật thà chân chất của Khê Đol chàng cảm động:
– Nếu được như thế
thì còn gì bằng, bây giờ có thu xếp gì cho em không?
– Nghe chưa Trà
Phí, mày chịu đi với anh hùng không/ Nói mau đi.
– Con chịu.
Khê Dol:
– Thấy không, tôi lựa
đúng chỗ, đúng người dạy dỗ là nó chịu liền.
Chợt Khê Đol trầm
ngâm chớp mắt rồi ngập ngừng nói tiếp:
– Bây giờ cho tôi
xin đem nó về một tháng để sửa soạn cho nó. Nó là con tôi. Tôi có một đứa con
tôi thương nó lắm, nhưng cũng phải cắt ruột cho nó đi học khôn với người ta chớ,
để lo cuộc đời về sau của nó chớ. Nó theo tôi chỉ có nước làm rẫy hoặc làm ăn
cướp mà thôi. Vậy người anh hùng ở đâu, đúng một tháng tôi dẫn nó tới giao cho.
Khi đó sẽ thấy nó khác bây giờ. Con của tôi mà, nó lịch sự đứa lắm, lại bụng tốt,
tính tốt nữa. Cục vàng của tôi đó.
– Cuộc đời trôi nổi,
tôi chưa có chỗ trú ngụ cố định. Em nó cứ ở chỗ ông đi, trong vòng một tháng đế
Quan Hoá sẽ gặp tôi.
– Ừ. Vậy thì được lắm.
Tôi sẽ đưa nó đếnchợ Trảng, tôi đi bán thuốc rừng và cho nó mãi võ với tôi, vậy
là mình gặp nhau dễ dàng. Biết chớ?
– Biết, tôi sẽ đón
tìm tại chợ.
Trà Phí hỏi:
– Cha à! Con kêu
người anh hùng bằng gì?
Lê Sĩ Triệt đáp
thay:
– Em kêu tôi là anh
được rồi, chúng mình hơn kém tuổi tác không bao nhiêu đâu. Em đi với anh, anh sẽ
lần hồi luyện tập võ nghệ cho em giỏi hơn.
– Em muốn đi ngay
bây giờ này hè. Nhưng còn phải để cha em gần gủi ít hôm dạy khôn ít bữa. Xin
anh nhớ đón em.
– Anh hứa là không
quên.
Khê Đol từ biệt:
– Thôi kính chào
anh hùng và hao cô gái con nhà quan.
Diệu Lan cười:
– Thôi các ông cứ về.
Sau này đừng đánh bắt tụi tôi nữa là tốt.
Thiên Hương nói
thêm:
– Các ông về làm
ăn. Tôi mong gặp lại nhau lần nữa ta sẽ là bạn tốt của nhau.
– Xin hứa. Gặp lại
nhau ta sẽ là bạn tốt.
Khê Đol nói xong dắt
tay con trai cùng đồng bọn quay lại, cắt ngang rừng mai cặp theo chân núi đi về
hướng tây mất hút.
Diệu Lan kính cẩn
đáp:
– Chị của em là
Thiên Hương, em tên là Diệu Lan, bởi tánh trẻ con ham vui xem hoa đuổi bướm nên
lạc đoàn người cùng đi. Đội ơn anh hùng cứu mạng.
Thiên Hương tiếp
theo:
– Chẳng hay ân nhân
tên chi, người ở xứ nào xin cho biết để chị em chúng tôi tạc dạ ghi ân.
– Từ nhỏ đến lớn
tôi ở chùa núi này. Nay thầy cho xuống núi vào đời. Có thể chúng ta trước đây cũng
đã gặp nhau trên chùa nhưng không chú ý. Còn ân nghĩa có gì quan trọng mà nói
chuyện ghi khắc.
– Thưa ân nhân, dù
lớn hay nhỏ cũng là ân nghĩa, huống chi một hành động mà cứu sống hai chúng
tôi. Người biết xử thế không thấy đây là ân nghĩa đáng ghi khắc thì sao xứng
đáng để nhìn cỏ cây dưới bóng mặt trời. Xin người nhận lòng chân thành cảm tạ của
chị em chúng tôi.
Nói xong Thiên
Hương và Diệu Lan cúi đầu thành kính. Lê Sĩ Triệt lật đật đáp lễ. Nỗi bất ngờ
thành niềm xúc động khi gần bên nhau. Chàng nhìn rõ gương mặt đáng yêu, tấm
lòng đáng quý và nết hạnh đứng đắn đoan trang. Thiên Hương cũng ngẩn ngơ xúc động
không biết phải nói lên lời nào chứa được cả nỗi niềm lưu luyến, kính yêu. Cuối
cùng Lê Sĩ Triệt lên tiếng:
– Thưa hai cô, cuộc
gặp gỡ nào cũng có nỗi ly biệt. Xin hai cô tự nhiên theo lối lên chùa. Còn tôi
đường đời xa diệu vợi không thể mãi dừng chân.
– Ân nhân sẽ đi về
đâu, cuộc gặp gỡ hôm nay đã gieo vào lòng tôi bao ân nghĩa sâu đậm. Người đi
trên vạn nẻo đường biết còn lưu lại chút tâm tình cho kỷ niệm này không?
Lời Thiên Hương
không diễn tả hết nỗi lòng nàngf nên cứ ngập ngừng không dứt.
– Thiên Hương, thân
tôi nặng mang lắm nợ. Bốn phương chưa hẹn đâu là nhà, lẽ đời bèo hợp rồi tan. Nợ
trai chưa trả, chí trai chưa thành, lưu luyến bao nhiêu cũng phải đến hồi chia
xa. Xin hẹn lại một ngày mai ta sẽ gặp nhau.
– Thôi được, chim
trời tất phải dọc ngang trong trời cao rộng. Chàng đã hứa một lời, em nguyện sẽ
đón chờ dù rằng chung quanh mình chưa biết cuội đời vần đổi ra sao. Em không biềt
chàng về đâu. Em cũng không nói em ở nơi nào, nếu cơ duyên dong ruổi thì đó là
số phận. Đây xin chàng nhận kỷ vật để luôn thấy trong một góc nhỏ cuộc đời có kẻ
vẫn luôn hướng mắt theo lối người đi. Xin người đón nhận.
Vừa nói, nàng vừa
tháo chiếc vòng ngọc lồng trong cổ tay rồi trao tận tay Lê Sĩ Triệt. Cầm chiếc
vòng mỏng manh trên tay, Lê Sĩ Triệt chưa biết nói lời nào. Từ chối hay chấp nhận,
chàng còn đang ngẩn ngơ thì Thiên Hương, Diệu Lan đã thoăn thoắt leo núi lên
chùa.
Thiên Hương, Diệu
Lan trèo lên dốc núi chưa được vài mươi bước chân bỗng nghe tiếng gọi từ sau
lưng:
– Thiên Hương trở lại.
Tiếng kêu trầm lặng
mà vang vọng âm sắc quen thuộc khiến hai cô giật mình. Lê Sĩ Triệt đang ngơ ngẩn
chưa rời chân cũng giật mình, ngạc nhiên nhìn lên. Diệu Lan sợ sệt nói nhỏ cùng
Thiên Hương:
– Chết rồi, cha em
đến. Ông thấy hết cả rồi.
– Ừ thì thầy đến,
thầy đến thì có sao? Mình có tội lỗi gì đâu?
– Chiếc vòng tay.
– Đâu lẽ thầy lại
khắt khe vì một chiếc vòng. Chị thấy bao nhiêu như vậy cũng chưa xứng đáng, lẽ
nào vì món quà nhỏ nhoi ấy mà thầy lại hẹp lượng hay sao?
Cạnh một tảng đá thật
to nằm bên chân núi có tiếng gọi hối thúc:
– Hai con quay lại
mau.
Nhìn nơi phát ra tiếng
gọi, Lê Sĩ Triệt thấy một cụ già đứng tực vào hòn đá, có lẽ đã lâu lắm đang vẫy
vẫy tay. Nghe tiếng kêu và nhìn thần thái của ông chàng biết đó là một người mặc
dù tuổi tác đã cao nhưng còn rất sung sức. Mắt sáng, trán cao, râu dài, vóc
hình cao lớn, giọng nói khoan thai, một phong cách hào sảng ung dung mà nhân hậu.
Thiên Hương, Diệu Lan hai người cùng quay trở lại. Biết mọi người đã thấy mình,
ông già nhẹ nhàng từ tốn bước ra nơi vừa xảy ra trận đấu võ kịch liệt. Vừa bước
chầm chậm ông vừa đưa mắt ngắm nghía lê Sĩ Triệt thật chăm chú. Ông đến trước mặt
chàng thì Thiên Hương, Diệu Lan cũng vừa đến nơi cúi đầu chào. Sĩ Triệt cũng chấp
tay thi lễ theo phép nhà chùa. Cụ già đáp lễ với chàng rồi quay qua Thiên
Hương:
– Sao hai con lại
đi như chạy trốn vậy?
Diệu Lan xen vô:
– Như
vậy là cha đã thấy rõ mọi việc hết rồi?
– Sáng
nay, lúc các con vừa rời khỏi am Mả Dộc ở Từ Hương thì cha cũng vừa đến đó thăm
anh bạn già Chín Thép.
Thiên Hương xen
vào:
– Vậy
ra thầy cũng là bạn thân của ông từ am Mả Dộc.
Ông cụ nói:
– Phải,
ta nghỉ chân tại đó, uống trà đàm đạo với bạn già một lúc lâu. Biết thế nào hai
đứa cũng nghêu ngao theo đường nên ta không vội. Đến quá nửa buổi mới theo,
nhưng nhờ già không thích đuổi bướm hái hoa nên bắt kịp và vượt hai chị em con.
Ta đã ngồi đợi hai con trên tảng đá này trước khi bọn cướp đến chia nhau ẩn nấp
để chờ gây sự.
– Như
vậy mà cha không ra tiếp sức để con và chị Thiên Hương chút nữa mất mạng.
– Cha
muốn để cho Thiên Hương khi lâm chiến thực sự có đủ dũng khí, bình tĩnh, nhạy
bén trước đối thủ bằng xương thịt hẳn hoiu hay chưa. Lúc ta định ra tay thì người
anh hùng đây can thiệp trước. Nên ta nín chờ xem diễn biến. Lúc chứng kiến đuợc
tài nghệ thì ta có suy nghĩ xem cái tinh hoa võ thuật này xuất xứ từ đâu.
Quay sang Lê Sĩ Triệt
ông hỏi:
– Còn
cháu, vì sao nhận được chiếc vòng rồi lại đứng ngẩn ngơ?
– Thưa
bác, lúc ban đầu cô Thiên Hương đưa chiếc vòng ra. Do bối rối quá, cháu nhận liền
không kịp suy nghĩ xem nên có nhận hay không. Vì nếu nhận là nhận cả sự đền ơn
đáp nghĩa, rồi còn bao nhiêu điều phức tạp khác chưa biết ra sao. Cháu chưa kịp
suy tính thì hai cô đã đi vội vàng, hấp tấp, cử chỉ đó càng làm cháu bối rối ngẩn
ngơ. Chẳng hay bác là bậc trưởng thượng chi của Thiên Hương, xin cho cháu được
biết.
Thiên Hương thay lời
bác:
– Đây
là thầy học của em.
Cụ già tiếp theo:
– Ta
tên Đặng Nhượng gia sư của Thiên Hương, ngoài việc dạy dỗ ta còn có nhiều trách
nhiệm với nó. Tuy vậy trên nhiều lĩnh vực ta thấy tự mình khôg phép xen vào, nhất
là về tình cảm, trái tim của tuổi trẻ. CVhính ta thấy rõ sự xao xuyến, rung động
của cả hai người, ngặt vì còn quá sớm, đôi bên chưa kịp suy nghĩ về mình. Ta biết
cái ngẩn ngơ và sự trốn chạy đều từ lẽ đó. Tốt nhất theo ta thì cái gì nó hợp
nhau tự nhiên nó phải đến gần nhau. Hai cháu không nên hấp tấp. Riêng cháu hãy
tự nhiên cho bác hỏi thăm.
Lê Sĩ Triệt đáp:
– Bác
cần gì cứ nói.
– Thấy
cháu sữ dụng ngọn roi là môt việc lạ trong làng võ của người mình hiện giờ. Vì
phép đánh roi đòi hỏi nhiều công phu. Quan trọng nhất là phẩm chất, ý chí và thể
lực của người được truyền thụ. Mỗi thế hệ chỉ được một hay hai học trò là cùng.
Người được truyền thụ ngoài đại chí, đại lực còn phải chủ yếu là đại tâm. Dùng
ngọn roi phải đáng đúng người đáng tội. Vì các miếng thế của nó thuộc loại tử
chiêu tối hiểm độc, nên chỉ dùng để diệt ác trừ gian. Xưa kia khắp vùng Thuận
Quảng, roi thần xuất hiện nơi nào là bọn tham quan ô lại ở đó bay hồn vỡ mật,
quân xiểm nịnh bất chánh, bất lương, cường hào ác bá khiếp đảm kinh tâm. Do cái
khó trong việc chọn người thừa kế, nên môn võ học này lần hồi bị thất truyền.
Hôm nay, gặp cháu lúc hành sự ta thấy cái mới lạ là nó mang dáng vóc của một nền
võ học mới hình thành. Ta không biết khẩu quyết của cháu thế nào, nhưng nghe tồn
đọng hơi hám của những ngón “Ngọc trảng, Ngân đài”, những thế “Nhất tiên trực độ
thanh kinh các, lại còn thêm sinh lực của “Hùng kê quyền”, bài võ đặc thù của
quân Tây Sôn ngoài Trung. Bài quyền gà chọi đó được bậc chân sư phối hợp tuyệt
vời với các món sở trường của lối đánh roi. Cho nên tác dụng mạnh mẽ không lường
hết được. Như vậy, người truyền thụ cho cháu phải là bậc cao học tinh thâm,
dùng tinh hoa cũ mà trước tác thành cái mới. Đủ cương nhu lại vô cùng dũng mãnh
lại càng nặng tình bác ái, bao dung của một bậc xuất gia chân tu.Qua những thế
võ tuy hiểm hóc nhưng luôn tạo cho kẻ địch một đường sống nhỏ, nếu chịu cúi đầu,
ôm gối quy phục. Ta nghĩ nguồn gốc chân sư ấy không tách khỏi vùng Nam Ngãi,
Bình Phú ở miền ngoài. Phải thế không cháu?
Lê Sĩ Triệt đáp:
– Bác
nói rất đúng, tiếc vì con không được biết nhiều về nguồn gốc của môn Tiên học.
Con được ân sư là Tri Tân hoà thượng truyền lại. Còn người sáng tạo và chân
truyền Tiên pháp Mai hoa cho thầy cháu là sư bá Ngũ hành Sư Trưởng.
– A,
Ngũ hành Sư Trưởng Lê Bằng. Thảo nào mà Tiên pháp diệu kỳ thế kia. Thân thế và
sự nghiệp của người, ta cũng biết qua do nghe nhiều người truyền tụng.
– Thế
bác cũng biết Ngũ hành Sư Trưởng?
– Ta
có vinh hạnh gặp người một lần. Ta biết Sư trưởng vì thất bại trong cuộc nổi dậy
ở Hưng Yên để phù Lê diệt Trịnh, do con cháu nhà Lê khởi xướng. Người mới trôi
dạt vào xứ Quảng cùng bốn nhà sư khác chia nhau tu ở năm ngọn núi Ngũ Hành Sơn.
Ta gặp người ở động Huyền Không và người là sư trưởng trong năm vị. Người rất
thương xót dân lành và cực ghét triều đình đầy tham quan ô lại, cho nên sau cuộc
nổi dậy giết bọn hào lý ở đất Quảng vào năm Bính Tuất thì người và các nhà sư cũng
biệt tăm luôn. Nay ta gặp được cháu là người tiếp thụ chân truyền của người làm
ta nhớ lại kỷ niệm lần gặp gỡ ấy. Còn cháu hiện giờ cháu phải về đâu?
– Thưa
bác, cháu được ân sư cho vào đời để dựng nghiệp theo thế tục, vì cháu thiếu căn
tu. Hiện cháu về Quan Hoá, vì nơi ấy may ra còn có người thân quen với gia đình
cháu.
Diệu Lan hỏi:
– Bây
giờ cha cùng đi với con và chị Hương lên núi, mai hãy về cùng đoàn khách hành
hương.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét