Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2018

Nghĩ về thơ Hoàng Quý – Lê Thiên Minh Khoa

 
Nhà thơ Hoàng Quý (HQ) nay đã ngót 70, nhưng đến gần tuổi trung niên anh mới làm thơ. Dù trễ, nhưng thơ anh cứ băng băng lao nhanh về phía trước. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, trong 20 năm, anh cho ra đời nhiều tập thơ: Giấc Phì Nhiêu (NXB Văn Học, 1996), Đi Bên Mùa Là Rụng (NXB Văn Học, 2000), Ngang Qua Cánh Đồng (NXB Hội Nhà Văn,  2002; tái bản, 2004), Giả Trang (NXB Văn Học, 2007)… cùng nhiều trường ca : Đối thoại trắng (2004), Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc (2011)…  và nhiều Giải thưởng văn học có giá trị.(2)
 
       … Thực ra, “văn kỳ thanh” từ lâu nhưng tôi mới “kiến kỳ hình”  Hoàng Quý sau nầy, khi chuyển sinh hoạt từ Hội VHNT Đồng Nai  về Hội VHNT BR-VT (anh là hội viên Hội nhà văn VN, sống tại Vũng Tàu), nhưng rất quý trọng anh bởi cái tâm công dân, và cái tài thơ ca của anh. Theo tôi, thơ anh ở cấp độ và xứng tầm thi sĩ, và anh là một trong những gương mặt đáng nể trọng của thi ca  Việt Nam đương đại, bởi thơ anh có một phong cách (style) riêng, độc đáo, mới lạ, “không giống ai” cả về nội dung trữ tình lẫn thi pháp_ nghệ thuật thơ ca.
       Về nội dung trữ tình, thơ anh hòa quyện giữa một cái tôi trữ tình cá nhân ngang tàng, phóng khoáng, cháy bỏng mà nhân hậu, nhạy cảm với một cái tôi trữ tình công dân yêu thương mặn nồng, hữu trách với Tổ Quốc, Nhân Dân. Hai cái tôi trữ tình nầy được biểu hiện bằng một giọng thơ riêng, lạ, một tình cảm nồng nàn, say đắm cùng  những liên tưởng bay bổng, bất ngờ rất Hoàng Quý. Thi sĩ họ Hoàng   có những câu thơ, bài thơ găm sâu về thân phận con người, nhân dân làm người đọc rạo rực, bồi hồi trăn trở và những câu thơ, bài thơ lắng sâu về Tổ quốc đất nước làm xúc động, đồng điệu, khơi dậy, bừng lên tình yêu đất nước quê hương kín sâu ở mỗi người:
“Nhân dân tôi
Nhân dân cô đơn
Nhân dân khiêm cung
Kham nhẫn và dịu dàng
Người là nước mà luôn thiếu khát
Người như lúa khắp ruộng nương nước Việt
Những hạt lúa dại vụng
Ấm và xót
Ngoi trên nắng
Dạt trên nước
Xác cháy trên tay chai
Xướp ráp tận ruột
Lấm láp và tinh tươm
Thơm tho sen súng
Giấc mê mẩn người
Thảng như ca dao
Xum xuê như cổ tích”
          (Trích Trường ca: Đối thoại trắng)
 
“Nếu bạn hỏi Đất Nước tôi bao tuổi
Xin hãy đếm những ngấn bùn châu thổ quê tôi
Nếu bạn hỏi về tầng sâu lịch sử
Xin đếm những ngấn bùn bồi đắp nước non tôi”
            (Trích Trường ca: Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc)
 
         Đề từ cho tập thơ “Ngang Qua Cánh Đồng”, anh viết “Cái hạt thơ anh gieo, tôi gieo với biết bao khó nhọc có thể sẽ nên cây mà cũng có thể thui chột như chưa từng hiện hữu…”. Hạt thơ … gieo với biết bao khó nhọc. Vâng, sáng tác thơ là một lao động sáng tạo đặc thù đầy cá tính trong cô đơn và tân khổ của nhà thơ. Thơ là niềm vui, là nỗi buồn, là vết đau, là cơn co giật, là phút thăng hoa, là hoài bão khát vọng, là mồ hôi, nước mắt, kể cả là tim óc, máu thịt (đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ “tâm huyết”) của nhà thơ và của nhân dân đã sản sinh ra mình (“Nhân dân sản sinh ra nhà thơ để nói hộ nhân dân những điều mà nhân dân không nói được”– Gamzatôp) . ..  Với phong thái tao nhã nhưng phong thế lại  vật vã, với tấm lòng trong trẻo, một thái độ ứng xử nhất quán, thẳng thắn, rạch ròi nhưng luôn luôn đằm thắm, vị tha và nhân hậu trước trùng vây tối sáng cuộc người, bằng tài năng và nghiệm sống của chính mình thơ của họ Hoàng luôn luôn gây những bất ngờ, dào dạt cảm xúc, nhiều khi khác thường, những  rung động mãnh liệt với thi hình, thi ảnh, ngôn ngữ, hình tượng thơ độc đáo, khác lạ,  trí huệ…:
                        “Như một cuộc trường chinh vĩ đại
                        Những ngấn bùn tụ hội ở Giao Châu
                        Những ngấn bùn thăm thẳm
                        Rất xưa và rất lâu
                        Những ngấn bùn bất khuất
Đắp bồi từ đớn đau
Những ngấn bùn kiêu hãnh
                        Không bao giờ cúi đầu”
                                    (Trích Trường ca: Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc)
 
                        “… Ai là bạn
Hãy đền với chúng tôi xoải chân trần trên cát
Lắng tiếng trở mình thao thức phù sa
Nghe đất thở dưới tán rừng châu thổ
Sưởi làn hương thắp Tết Ộng Bà
Xin bạn cứ ruổi rong thỏa thích
Suốt vòng cung đầy nắng nước non tôi
Cùng vỗ chiêng, cồng
Như vỗ những mặt trời nho nhỏ
Sẽ gặp đàn chim cổ tích bay ra
Bạn thử ướm bàn chân tõe ngón
Những bước bùn, bước mẹ, bước em tôi
Bạn sẽ hiểu vết bùn như máu đọng
Trên vai trần trên tóc khét cha tôi”
            (Trích Trường ca: Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc)
 
            Ngôn từ trong thơ Hoàng Quý lạ lẫm, táo bạo, tưoi rói, đắc địa, biến ảo, nhiều khi lẫm liệt, đặc biệt rất nhiều từ “lệch chuẩn” làm người đọc vừa sửng sốt, vừa thú vị.  “Lệch chuẩn” nghĩa là vừa giống mọi người (chuẩn), vừa khác mọi người (lệch).Giống” tức là theo chuẩn mực chung về sử dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác” tức là phải có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích. Chẳng hạn Hoàng Quý viết: “Sóng rất ênh uôm”,“nước mắt phì nhiêu”, “cười hoang vu”, “Đuềnh đoàng nón thúng”, “Nụ thắp xanh xao”, “Ướp đêm biên tái”, “Chiều như mắt biếc”
        Xin dừng lại ở hình ảnh “cười hoang vu”  trong  câu thơ “ Chớ cười hoang vu như thế nữa”(Thôi em về đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng vẻ của một vùng đất,  ở đây anh dùng để chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu là nụ cười trong trắng, vô tư, ngây thơ , hồn nhiên và…dại khờ. Anh lắp ghép những từ ngữ cũ kỹ để tạo thành từ ngữ mới mẻ, lạ lùng, có “hồn chữ quẫy cựa”, có sức biểu nghĩa phong phú, sức biểu cảm lắng sâu, thi hình biến ảo, thi ảnh bất ngờ…
         Tôi đã đọc trên 300 bài thơ viết trong chừng 20 năm của Hoàng Quý. Mỗi bài là một thi phẩm đúng nghĩa. Tiếng thơ vạm vỡ, tình thơ cô nén, mạch ngầm gợi nghĩ, giọng thơ sang trọng, ngôn ngữ trong trẻo, đa thanh, biến ảo, rất nhiều ma lực, tứ thơ vững chãi.
         Ai cũng biết tứ thơ là một yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại.Tứ thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên có nhiều cách diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với  bức tranh tâm trạng – tình của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ – từ.. Cả ba yếu tố đó – tình, từ, ý – thông qua phương thức tứ, tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Vì vậy, tứ được coi như xương cốt của bài thơ và là tiêu chí  bậc nhất  để phân biệt Thơ và “cái giống thơ” nhưng “không phải thơ” như vè, văn vần, khẩu hiệu minh họa, tuyên truyền cổ động… hoặc bài “ráp vần, xếp chữ” của nhiều người “chơi thơ” hiên nay mà thôi, Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.
Mỗi bài thơ của Hoàng Quý đều dệt kết đan cài và hội tụ quanh tứ với bút pháp nội tĩnh ngoại động (hoặc ngược lại) hài hòa, tinh tế, nhuần Việt, đầy sinh khí, huyền ảo (nhiều khi uyên áo, ảo diệu, mộng mị) giữa tình, từ, ý trong toàn bài. Có lẽ chính “tứ” tạo nên giọng điệu rất riêng, dữ dội mà không chói gắt, quyết liệt mà mà vẫn ấm nồng, sáng giá, cùng nhịp điệu, nhạc điệu khoát hoạt ẩn trong thơ tạo nên dư ba. Cấu trúc sáng tạo, khác thường riêng anh có thể biến những câu không vần, ngắn dài không đều nhau, và, những bài thơ văn xuôi của anh hóa thành THƠ và là thơ hay. Bài thơ văn xuôi “Giấc Phì Nhiêu” trong tập thơ cùng tên của họ Hoàng là một minh họa tiêu biểu:                        
“Rất nhiều khi ta thảng thốt mơ giấc phì nhiêu của đời người
                          em đâm đuống, em trỗ ống, ta đánh cồng và ca hát khúc ca
                         của Mường Người…”
             Xin trích lại đánh giá của cố Thi sĩ – Nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn về Hoàng Quý và Thơ Hoàng Quý thay cho lời kết: “Hoàng Quý là một thi sĩ tài năng bẩm sinh, giọng thơ rất riêng đầy ma lực và khác thường, một giọng thơ độc đáo, một tâm tưởng độc đáo và thi pháp độc đáo. Thơ của nhà thơ tài năng và lãng tử này rồi sẽ còn phải bàn đến vào lúc những giá trị thật của thi ca được định giá sòng phẳng. Hoàng Quý là nhà thơ luôn mang nghĩa cử của một thi sĩ đích thực trong cái không gian sống đã chen chúc nhiều tệ hại”.
                                                                                                           
LTMK
 
—————-
Trích trả lời phỏng vấn của Đài PTTH BRVT về nhà thơ Hoàng Quý
      Thơ  Hoàng Quý được trao tặng các giải thưởng: Giải Nhất của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2003 cho tập thơ “Ngang qua cánh đồng”; Giải Nhì 50 năm Văn học Biên phòng, 2008; Giải Ba cuộc thi lớn “Thơ về Hà Nội – Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, 2010)… Toàn bộ tiền thưởng của các giải thưởng Hoàng đều  hiến tặng: Hội nạn nhân chất độc da cam/ Đi ô xin Việt nam, Quỹ mái ấm người nghèo biên giới, hải đảo, và Trường học sinh khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội (LTMK).
     ______________________
 
 
                     Giới thiệu Bài Thơ  tiêu biểu của Hoàng Quý
 
   

            Ngẫu hứng qua Mường
 
1.
Một năm Hội Tú Mường (1) chỉ có một lần
Một năm anh ơi nhớ mà đến chơi với em, với hội!
No xôi, no thịt thì cứ chơi liền liền đi
Trên đầu lắc lư con ma rượu rồi có đứa trốn ra nương,
                                                   hai đứa khéo mà thành một đứa!
Ơ! Cái Hội Tú Mường là chiếc cầu bẳng từ nhà anh sang nhà em
Đừng run cái chân treo cầu, đừng ngại rát cai vai, bỏng cái lưng
                                                                                cõng em về làm vợ
Đây này, cái má em nó đang cháy vì ống sáo ai thổi
Đây này, cái ngực em nó đang nảy phập phồng bởi tiếng đàn ai réo
CẦU ÔNG VUA TRỜI MÃI CHO BÔNG LÚA CON TO BẰNG CÁI VÒI HÁI,
BÔNG LÚA CÁI TO BẰNG CÁI ĐUÔI CON TRÂU,
                                          CON LỢN LỚN BẰNG CON VOI NHỠ (2)
Để anh làm cỗ đón em về làm vợ
Có dám yêu thì trèo cầu sang ngay đi
Có gan lấy cược cho pố, mế em xâu bạc trắng!
 
2.
Em ơi! Một năm Hội Tú Mường chỉ có một lần
Một năm em ơi nhớ mà về đây chơi với anh, với hội
Ơ này, làm sao em cứ giữ chặt ngón tay anh trên cái núm ngực em đấy
Ơ! Cái đầu anh con ma rượu nó vặt đi đâu mất rồi
Chỉ còn cái nửa dưới người anh run run thôi em ơi
Đã thích nhau thì cứ gì đến hội mới trèo cầu đi cõng vợ
Không có cầu, thích, thì anh lội ào qua thác lũ tìm em!
CẦU ÔNG VUA TRỜI MÃI CHO BÔNG LÚA CON TO BẰNG CÁI VÒI HÁI,
BÔNG LÚA CÁI TO BẰNG CÁI ĐUÔI CON TRÂU,
                                      CON LỢN LỚN BẰNG CON VOI NHỠ
Cho pố, mế em được đón cái thằng rể hiền đầu đội cỗ chỉ toàn có tóc
Chẳng có bạc cược cho pố, mế thì anh lên sàn tìm em anh lấy cắp
Em có về với anh không em ơi, em ơi…
Em mà không về, cái lưng cõng em nó rát giọt mồ hôi, nó khóc!
 
3.
Em ơi! Cái bụng anh thèm nói lời yêu mà sao không nhìn thấy em đâu
Cái ruột, cái gan anh đang gào hoài hơi trên ống sáo
Có thích nhau thì mới đi tìm nhau
Sao không thấy mùa này em về chơi hội
Em để cho dây đàn anh thiếu nốt vợ, nốt chồng
Hay là em chê anh?
Em chê anh thì cứ nói với nhau một lời …
 
          4.
Con săn (3) có ngoan bắt nhiều thú cho chủ làm canh
Con chim mi, con chim khiếu tốt sợ mường buồnbiết hót cho mường vui rộn rã
Con chim sáo hay không quên bà chủ nhà
Cây lúa trổ bông nặng, bông to
là biết thương cái giọt mồ hôi người đi nương, đốt rẫy
Ô! Cái mường mình vui bởi có nhiều mùa hội
Nên cái tụi trẻ con lúc no trong ruột rồi nó nhảy chân chim!
 
5.
Cái váy đứa con gái nhớ yêu ai mà đan xéo rối cái đường thêu
Quả xà tích (4) nhớ ai mà pung pinh réo
Đứa trai bản tốt biết nhớ mường khi xa
Đứa gái bản tốt biết chờ chồng cạn con mắt khóc
Cái đuống mày đâm, cái ống mày trỗ (5)
Là tao nhớ mường, là mường nhớ tao!
Cái nhớ luôn mồm kêu tửng tưng trên dây đàn cò ke (6)
Cái yêu rộn ràng rên tỉ ti trong ống sáo
Là tao nhớ mày, nhớ mường lắm đấy!
 
6.
Ô! Cái mường mình ơi, cái mường ta ơi
Ta yêu mường vì pố, mế sinh ra ta ở đó
Pố, mế già pố, mế về núi
Pố, mế về núi có nhớ mường, có nhớ đàn con!
Ta lớn phổng lớn phang như cây măng vầu đốt mập là vì được làng chăm
Ta có cái nghĩ khôn là do sự bảo ban của người già tóc bạc
Ô cái mường của ta! Cái mường của ta!
Ta yêu mày như hòn đá lở rồi vẫn còn lại vết vỡ trong ruột núi
 
7.
Như con nai lạc bầy ngơ ngác giữa rừng hoang
Ta đi tìm cái hang của ta như con nai đi tìm mầm cây đắng
Ta không còn cha, ta không còn mẹ
Ta không có ruộng nương, không có chiêng đồng…
Nếu ta đã ngàn ngày trôi như chiếc lá
Thì, lá ơi xin hãy dừng chân
 
8.
Ô mường ta ở đâu, cha ta ở đâu
Mẹ ta, anh chị ta ở đâu
Ta đang đói hơn con ma đói, khát hơn con ma khát
Cái đầu ta nhớ, cái tim ta đau
Ta như ngọn măng mới nhô con hổ đạp gãy
Ta như quả ớt vỏ đẹp nhưng trong ruột cay
Ô mường ta ở đâu, cha, mẹ, anh, chị ta ở đâu
Để tim ta buốt, để đầu ta đau!
 
9.
Con chim có đôi có lứa dám bay cao, bay xa
Con cá có đôi, có cặp tung tăng bơi lội
Con nai ngác ngơ có đôi có lứa không sợ thung sâu và thú dữ
Ta và nàng yêu nhau sao khổ thế, nàng ơi
Đã cùng nhau tìm về nơi cuối đất nơi cùng trời
Ta đã biết cái bụng nàng yêu ta
Biết cái điều bao tháng năm quả tim nàng bối rối
Cầu trời cho hai ta hóa thành hòn đá lặng câm không biết nói
Sáo hãy nói với nàng lòng yêu của ta
Hãy hát với nàng tình yêu của ta…
                                  
Mường Xuân Đài, tháng Chạp.
 
1.Hội Tú Mường: Tổ chức vào khoảng trung tuần tháng Giêng. Trong ngày hội trai, gái có tục tìm hiểu nhau qua các hình thức hát giao duyên gần giống với cách thức tỏ tình ở chợ tình của ngưới H'Mông.
           2.Lời trong bài mo “Đẻ đất – Đẻ nước”.
           3.Con săn: Con chó
           4.Xà tích: Một loại trang sức chế tác bằng bạc trắng, công phu, và rất đẹp dành cho phụ nữ.
5..Đuống: Hay cối đuống dùng đễ giã gạo. Đuống cũng đồng thời được sử dụng như một nhạc khí dân gian của đồng bào mường. Đồng bào mường vẫn tồn giữ các bài bản đâm đuống, trỗ ống rất đặc sắc.
6.Đàn cò ke: Một nhạc khí dân gian Mường.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét